Phần 3. các câu hỏi quan yếu

Một số tác giả đã phản hồi đề nghị của Kasper. Như tôi đã gợi ý trong phần giới thiệu, có rất nhiều chiều kích cho vấn đề này, vốn liên quan đến toàn bộ nhiệm cục bí tích cũng như các nền tảng của thần học luân lý. Trong khoảng trống còn lại, tôi muốn lưu ý ba khó khăn – hoặc có lẽ là ba lĩnh vực mà một cách tiếp cận khác có thể tỏ ra hữu hiệu hơn và nhân hậu hơn. Mục đích chính của tôi không phải là chỉ trích Đức Hồng Y Kasper, mà là suy nghĩ thấu đáo một số vấn đề quan trọng đối với các Thượng Hội đồng sắp tới cũng như đối với nhiệm vụ truyền giáo của Giáo hội.

1. Khó khăn đầu tiên được Đức Hồng Y Carlo Caffarra nhận diện. (42) Còn cuộc hôn nhân đầu tiên thì sao? Nếu Giáo hội muốn mở rộng lòng thương xót và sự quan tâm mục vụ, điều quan trọng là phải biết cá nhân đó có kết hôn hay không. Một cuộc phỏng vấn gần đây với Đức Hồng Y Kasper đăng trên tạp chí Commonweal đã làm sáng tỏ chính câu hỏi này. (43) Các biên tập viên của Commonweal đã hỏi câu hỏi sau đây:

Khi nói đến vấn đề rước lễ cho những người Công Giáo đã ly dị và tái hôn, Đức Hồng Y Carlo Caffarra, tổng giám mục Bologna, đã được dành rất nhiều không gian ở Il Foglio để chỉ trích đề nghị của ngài. Đức Hồng Y Caffarra có một câu hỏi dành cho ngài: “Điều gì xảy ra với cuộc hôn nhân đầu tiên?” (44).

Đức Hồng Y Kasper trả lời như sau:

“Cuộc hôn nhân đầu tiên là cuộc hôn nhân bất khả tiêu vì hôn nhân không chỉ là lời hứa hẹn giữa hai người; đó cũng là lời hứa của Thiên Chúa, và những gì Thiên Chúa làm đều được thực hiện cho đến muôn đời. Vì thế sự ràng buộc của hôn nhân vẫn còn. Tôi không phủ nhận rằng sự ràng buộc của hôn nhân vẫn còn. (45)

Sau này trong cuộc phỏng vấn, Kasper quay lại điểm này: không có cách nào tôi phủ nhận tính bất khả tiêu của bí tích hôn nhân. Điều đó thật ngu ngốc. Chúng ta phải thực thi nó và giúp mọi người hiểu nó và sống nó. (46)

Có hai điểm cần lưu ý trong câu trả lời. Bằng cách đề cao tính bất khả tiêu và do đó sự hiện hữu tiếp tục của mối ràng buộc, Kasper buộc phải từ bỏ tính độc chiếm ở trung tâm của hôn nhân vừa như một định chế tự nhiên vừa là biểu tượng thực sự của tình yêu Chúa Kitô dành cho Giáo hội. Việc cho phép nhiều cuộc hôn nhân hoặc quan hệ vợ chồng bên ngoài bối cảnh hôn nhân là rõ ràng đi trệch khỏi lời lẽ của Chúa Kitô và giáo huấn thường xuyên và phổ quát của Giáo hội. Theo lời của Đức Hồng Y Caffarra, đề nghị của Kasper “phá hủy nền tảng giáo huấn của Giáo hội về tính dục.” (47) Hơn nữa, quan điểm của Kasper không phù hợp với cách hiểu của Giáo hội về tính bất khả tiêu, mặc dù ngài đã nhiều lần bảo đảm điều ngược lại. Nền tảng của tính bất khả tiêu là sự tự hiến hoàn toàn và vĩnh viễn của vợ chồng qua việc trao đổi lời thề hứa và qua sự kết hợp một xương một thịt. Nhờ ân sủng của bí tích, việc tự hiến cho nhau này là biểu tượng thực sự của tình yêu Chúa Kitô dành cho Giáo hội. Trong một đoạn quan trọng trong Familiaris consortio, Đức Gioan Phaolô II liên kết ý tưởng tình yêu như một sự hiến dâng hoàn toàn bản thân và ơn bất khả tiêu:

“Bắt nguồn từ sự tự hiến bản thân và hoàn toàn của đôi vợ chồng, và được đòi hỏi vì lợi ích của con cái, tính bất khả tiêu của hôn nhân tìm thấy chân lý tối hậu của nó trong kế hoạch mà Thiên Chúa đã biểu lộ trong mặc khải của Người: Người muốn và Người thông truyền tính bất khả tiêu của hôn nhân như hoa trái, dấu chỉ và yêu cầu của tình yêu tuyệt đối chung thủy mà Thiên Chúa dành cho con người và Chúa Giêsu dành cho Giáo hội... Chúa Giêsu là ‘chứng nhân trung thành’, là lời “xin vâng” của những lời hứa của Thiên Chúa, và do đó là việc hiện thực hóa tối cao lòng trung thành vô điều kiện mà với nó Thiên Chúa yêu thương dân Người thế nào, thì các cặp vợ chồng Kitô giáo cũng được mời gọi thực sự tham gia vào tính bất khả tiêu không thể thu hồi vốn ràng buộc Chúa Kitô với Giáo Hội, hiền thê của Người, được Người yêu thương đến cùng như thế". (48)

Tính bất khả tiêu—hoa trái, dấu chỉ và yêu cầu của việc hiến thân hoàn toàn và vĩnh viễn để tham gia vào tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo Hội—bao gồm và đòi hỏi tính độc chiếm. Việc không thể tách ly tính bất khả tiêu và tính độc chiếm được đặt nền tảng trên bản chất của sự ưng thuận hôn nhân như sự cho đi và nhận lại bản thân mình. Nếu một nhà thần học hoặc thành viên của Giáo hội nghĩ rằng có thể bị ràng buộc bất khả phân ly với người khác trong khi vẫn cho phép quan hệ tình dục với người khác nữa, thì vị này chưa khẳng định sự thật của tính bất khả tiêu.

Ơn dây liên kết bất khả tiêu cùng một lúc là hình thức và hoa trái của việc Chúa Kitô đi đến cùng đích của tình yêu bằng cách trao ban chính bản thể sự sống của Người cho Chúa Cha và cho Giáo hội, và là hình thức và hoa trái của một tình yêu đích thực của con người mong muốn hiến trọn sự sống của mình và đón nhận người yêu trong một hiệp thông bất khả thu hồi. Tính bất khả tiêu của bí tích là một hồng ân cao cả của lòng thương xót, qua đó tình yêu Thiên Chúa ngự trị trong tình yêu con người, và cho phép tình yêu này phát triển vượt lên trên chính nó để tham dự vào tình yêu Thiên Chúa và lòng thành tín của Thiên Chúa. Ân sủng này giúp những người trao đổi lời thề hứa hôn nhân có thể nói sự thật – anh xin cam kết mạng sống của anh cho em trong lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, lúc ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, cho đến chết – và biết rằng những lời này là sự thật. Ân sủng bất khả tiêu có nghĩa là bất chấp những thăng trầm và đau khổ xảy đến với sự thất bại và tội lỗi của con người, mối dây hôn nhân bí tích vẫn là nguồn mạch vĩnh cửu của lòng thương xót, sự tha thứ và chữa lành.

Giáo Hội không có thẩm quyền thay đổi giáo huấn của Chúa Kitô về tính bất khả tiêu của hôn nhân. (49) Nếu đúng là tính bất khả tiêu bao gồm và đòi hỏi tính độc chiếm, thì các Thượng Hội đồng sắp tới hoặc Đức Giáo Hoàng Phanxicô không thể đi theo hướng do Đức Hồng Y Kasper đề nghị. Những lời của Kasper từ năm 1977 vẫn đúng: “Giáo Hội không thể xây dựng luật giải nghi học riêng của mình mà lại khác với luật Chúa Kitô. Nó chỉ có thể trung thành với lời của Chúa Giêsu. Nó không thể chỉ nói ngoài môi về việc tuyên xưng tính bất khả tiêu của hôn nhân và làm suy yếu nó trên thực tế”. (50)

2. Điều đó để lại cho chúng ta Kế hoạch A—một sự mở rộng rộng rãi diễn trình tuyên bố vô hiệu. Như được xác nhận bởi Công đồng Trent cũng như học thuyết và thực hành sau đó, Giáo hội có thẩm quyền đáng kể đối với hình thức hôn nhân; cụ thể, Giáo Hội có thể xác định những điều kiện thành sự hay những trở ngại cho hôn nhân. Như đã lưu ý ở trên, có một số yếu tố trong Kế hoạch A của Kasper. Tôi muốn tập trung vào một câu hỏi duy nhất: đức tin bản thân có cần thiết cho sự thành sự của hôn nhân không? Kasper không dành nhiều sự chú ý cho câu hỏi này, nhưng một số nhà thần học, trong đó có Joseph Ratzinger, đã cho thấy rằng câu hỏi này đáng được nghiên cứu thêm.

Việc theo dõi sự phát triển trong lập trường của Ratzinger về vấn đề này mang tính giáo dục cao. Trong một tiểu luận quan trọng được viết vào năm 1998 và được tái bản trên L’Osservatore Romano vào năm 2011, “Phương pháp tiếp cận mục vụ về hôn nhân nên được thiết lập dựa trên sự thật”, Đức Hồng Y Ratzinger viết: “Tuy nhiên, cần phải nghiên cứu sâu hơn về câu hỏi liệu những Kitô hữu không có đức tin—những người đã được rửa tội nhưng chưa bao giờ tin hoặc không còn tin vào Thiên Chúa—có thể thực sự bước vào hôn nhân bí tích. Nói cách khác, cần phải làm rõ liệu mọi cuộc hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội có phải là một cuộc hôn nhân bí tích hay không. Thực ra, Bộ Giáo luật khẳng định rằng chỉ có cuộc hôn nhân “thành sự” giữa những người đã được rửa tội mới đồng thời là một bí tích (x. CIC, điều 1055). Đức tin thuộc về bản chất của bí tích; điều còn phải làm rõ là câu hỏi pháp lý về bằng chứng nào cho thấy “sự thiếu đức tin” sẽ dẫn đến hậu quả là bí tích không hiện hữu.” (51)

Giả định nằm dưới đoạn văn này là ý tưởng đơn giản nhưng quan trọng cho rằng các bí tích là bí tích của đức tin, chúng không chỉ đơn giản là ma thuật. Như Công đồng Vatican II dạy, “các bí tích không chỉ giả định đức tin, mà còn bằng lời nói và đối tượng, chúng còn nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin.” (52) Tuy nhiên, tuyên bố của Ratzinger trong tiểu luận năm 1998 này đặt ra các vấn đề đòi phải làm sáng tỏ thêm. Vấn đề không chỉ đơn giản là vấn đề xác định các tiêu chuẩn thích hợp để đo lường sự hiện diện hay vắng mặt của đức tin bản thân, mặc dù không nên đánh giá thấp khó khăn cố hữu này. Ở bình diện căn bản hơn, đòi hỏi phải có “đức tin bản thân” chạm đến tính không thể tách rời của định chế và bí tích trong hôn nhân cũng như tính khách quan của nhiệm cục bí tích được bảo vệ bởi nguyên tắc ex opere operato [do chính việc đã làm]. (53) Bảy năm sau, với tư cách là Giáo hoàng, Đức Bênêđíctô XVI đã trở lại với vấn đề đức tin và bí tích trong bài diễn văn ngỏ với các giáo sĩ giáo phận Aosta: “Khi tôi còn là Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, tôi đã mời nhiều hội đồng giám mục và các chuyên gia nghiên cứu vấn đề này: một bí tích được cử hành không có đức tin. Trên thực tế, liệu một khoảnh khắc vô hiệu có thể được phát hiện ở đây hay không vì bí tích được phát hiện là thiếu chiều kích căn bản, tôi không dám nói. Cá nhân tôi nghĩ vậy, nhưng từ những cuộc thảo luận chúng tôi đã nhận ra rằng đây là một vấn đề hết sức phức tạp và cần được nghiên cứu sâu hơn.” (54)

Rõ ràng chính Đức Giáo Hoàng Bênêđictô vẫn tiếp tục suy tư về vấn đề này, và có bằng chứng cho thấy ngài đã thay đổi quan điểm. Giáo huấn cuối cùng của ngài về sự cần thiết của “đức tin bản thân” đối với giá trị thành sự của hôn nhân đã được trình bày trong bài phát biểu trước Giáo triều Rôma khoảng ba tuần trước khi ngài tuyên bố từ chức. Ngài nói:

“Vì mục đích của bí tích, giao ước bất khả tiêu giữa một người nam và một người nữ không đòi hỏi những người đã đính hôn phải có đức tin bản thân; điều nó đòi hỏi, như một điều kiện tối thiểu cần thiết, là ý định thực hiện những gì Giáo hội làm. Tuy nhiên, nếu điều quan trọng là không nhầm lẫn vấn đề ý định với vấn đề đức tin bản thân của những người kết hôn, thì dù sao cũng không thể tách rời chúng hoàn toàn. Như Ủy ban Thần học Quốc tế đã nhận xét trong một Tài liệu năm 1977: “Nơi nào không có dấu vết của đức tin (theo nghĩa của thuật ngữ 'niềm tin' [belief]- có thiên hướng tin), và không thấy ước muốn về ân sủng hay sự cứu rỗi, thì một sự nghi ngờ đích thực nảy sinh về việc liệu có ý hướng bí tích thực sự như được đề cập ở trên hay không và liệu trên thực tế hôn nhân đã được ký kết có được ký kết thành sự hay không”. Tuy nhiên, Chân phước Gioan Phaolô II, khi phát biểu tại tòa án này cách đây 10 năm, đã chỉ ra rằng “một thái độ của những người kết hôn mà không tính đến chiều kích siêu nhiên của hôn nhân chỉ có thể khiến hôn nhân trở nên vô hiệu nếu nó làm suy yếu tính thành sự của nó trên bình diện tự nhiên trên đó chính dấu hiệu bí tích diễn ra.” (55)

Đây là một giáo huấn cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa vô tận đối với thần học về tự nhiên và ân sủng. Điểm cốt yếu là chúng ta có thể và nên khẳng định tầm quan trọng thiết yếu của đức tin đối với việc cử hành bí tích. Nhưng những câu hỏi liên quan đến việc xác định tính thành sự của bí tích hôn nhân, dưới ánh sáng tuyên bố của Đức Bênêđíctô, là: Bạn đã rửa tội chưa? Bạn có ý định kết hôn trong nhà thờ không? Bạn có biết những đặc tính thiết yếu và mục đích của hôn nhân không? Nếu người lãnh nhận bí tích hôn nhân được rửa tội, hạt giống đức tin sẽ hiện diện. Việc chuẩn bị cho hôn nhân cung cấp một cơ hội duy nhất để tái đánh thức đức tin được ban cho trong phép rửa. Chúng ta không nên đánh giá thấp tất cả những gì có thể hàm chứa trong ý định kết hôn của các vị hôn phu. Nếu mỗi người trong số họ thực sự có ý định kết hôn, thì sẽ có một sự cởi mở ngầm đối với Thiên Chúa và sự trung thành với giao ước của Thiên Chúa. (56) Điều này đủ để bí tích thành sự. Nói cách khác, để cho thấy tầm quan trọng của đức tin đối với bí tích hôn nhân, chúng ta phải đào sâu sự hiểu biết của mình về “mức độ tự nhiên mà trên đó dấu hiệu bí tích diễn ra”. (57) Ngay trong trật tự sáng thế, hôn nhân cũng đã thấm đẫm mầu nhiệm Thiên Chúa. Trọng tâm của hôn nhân là sự cởi mở với Thiên Chúa và niềm tin ngầm vào sự trung thành trong giao ước của Thiên Chúa. (58)

3. Điều trên dẫn tôi tới phản kiến thứ ba và cũng là kết luận chống lại đề xuất của Kasper. Ở một mức độ đáng chú ý, đề xuất này đã trở thành vấn đề cốt lõi cho các thượng hội đồng sắp tới. Trong “Lời bạt” cho bài thuyết giảng của ngài, trong đó ngài ủng hộ việc thay đổi cách thực hành của Giáo hội, Kasper viết:

“Về vấn đề này, Giáo hội đặt nhiều kỳ vọng. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta không thể đáp ứng được mọi kỳ vọng. Nhưng sẽ gây ra sự thất vọng khủng khiếp nếu chúng ta chỉ lặp lại những câu trả lời giả thiết luôn được đưa ra. Là những chứng nhân của niềm hy vọng, chúng ta không được phép để mình bị dẫn dắt bởi lối giải thích sợ hãi. Cần có một chút can đảm và trên hết là tính dạn dĩ Kinh Thánh (parrhesia). Nếu chúng ta không muốn điều đó thì chúng ta không nên tổ chức một Thượng Hội đồng về chủ đề này, vì khi đó tình hình sau đó sẽ còn tồi tệ hơn trước. Ít nhất chúng ta nên mở cửa một chút.” (59)

Hãy lưu ý những chữ “thượng hội đồng về chủ đề này”. Có thể đáng đặt câu hỏi về tính trung tâm mà Kasper dành cho vấn đề đặc thù này (việc rước lễ cho những người đã ly dị và tái hôn dân sự), và không chỉ đơn giản vì văn phòng giảng dạy của Giáo hội đã giải quyết vấn đề này một cách dứt khoát. Nhớ lời yêu cầu chữa lành vết thương của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, điều quan trọng là Giáo hội phải nhận ra những vết thương sâu nhất và cấp bách nhất. Nhưng làm thế nào để hiểu những điều này một cách tốt nhất?

Đã đành là có sự đau đớn và đau khổ thực sự nơi những người Công Giáo tái hôn dân sự, những người cảm thấy bị loại trừ khỏi Bí tích Thánh Thể. Tuy nhiên, đây không phải là vết thương nghiêm trọng nhất cũng không phải là thách thức mục vụ nghiêm trọng nhất mà Giáo hội ngày nay phải đối đầu. Những vết thương sâu nhất trong nền văn hóa của chúng ta – kể cả những vết thương của những gia đình tan vỡ – đều bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng đức tin, vốn luôn là cuộc khủng hoảng về tình yêu và cuộc khủng hoảng về lý trí. Cùng với việc lu mờ trong cảm thức về Thiên Chúa, còn có sự mất niềm tin vào tính khả niệm và tính tốt lành của trật tự tạo dựng. Thật khó để giới trẻ ngày nay tin vào một Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử nhân loại và chia sẻ cuộc sống của Người trong các bí tích của Giáo hội. Nhiệm vụ mục vụ cấp bách nhất là làm chứng cho tình yêu vĩnh cửu và nhân hậu của Thiên Chúa, một tình yêu giả thiết và bảo vệ số phận của sáng thế cũng như phẩm giá của sự sống con người và tình yêu con người.

Để kết luận, chúng ta hãy trở lại hình ảnh bệnh viện dã chiến sau một trận chiến. Theo một nghĩa nào đó, Giáo hội là bệnh viện và các bí tích là liều thuốc thực sự chứa đựng và làm trung gian cho ân sủng chữa lành của tình yêu Thiên Chúa. Nhưng các bí tích luôn có nhiều điều hơn thế, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, bí tích tóm lược đức tin của chúng ta và bao trùm toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Các bí tích không chỉ là thuốc chữa; chúng giống chính bệnh viện nhiều hơn - một nơi chữa lành và đổi mới. Và hơn cả việc chỉ đơn giản là một bệnh viện, các bí tích biểu lộ sự thật sâu sắc nhất về nguồn gốc và số phận cuối cùng của chúng ta. Chúng mở ra một không gian cho sự sống đích thực của con người, cho lòng thương xót và sự tha thứ, cũng như cho việc đổi mới mọi tạo vật. Các bí tích là một hồng ân dồi dào đáng ngạc nhiên - trong Bí tích Thánh Thể, toàn bộ mầu nhiệm sự sống và tình yêu của Chúa Kitô, có thể nói, được tập trung và thực sự được trao ban cho Giáo hội thế nào, thì, trong hôn nhân, cũng có một mối dây bí tích có thể bao trùm toàn bộ cuộc sống con người, ngay cả những hoàn cảnh khó khăn và đau đớn nhất như bệnh tật, đau khổ và bị bỏ rơi như vậy. Sự tha thứ và lòng thương xót luôn hiện diện, không chỉ như một lý tưởng hay bất chấp sự thất bại trong hôn nhân, nhưng trong và qua mối dây hôn nhân bất diệt, vẫn là dấu chỉ và nguồn mạch của lòng thương xót và là biểu tượng thực sự cho chiến thắng của Chúa Kitô trên cái chết.

Sẽ rất tốt cho thượng hội đồng sắp tới nếu ghi nhớ những lời của Tobias khi chàng trao đổi những lời thề không thể thay đổi với Sarah trong khi cầu nguyện với Chúa: “Xin ban ơn cho con được tìm thấy lòng thương xót và được già đi cùng nàng.” Và nàng cùng chàng nói, “Amen.” (Tb 8:7–8)

NICHOLAS J. HEALY, JR. là giáo sư triết học và văn hóa tại Viện Giáo hoàng Gioan Phaolô II Nghiên cứu về Hôn nhân và Gia đình của Đại học Công Giáo Hoa Kỳ ở Washington, D.C.

Communio 41 (Mùa hè 2014). © 2014 bởi Communio: Tạp chí Công Giáo Quốc tế

______________________________________________________________
(1). Cuộc phỏng vấn Đức Giáo Hoàng Phanxicô của Antonio Spadaro, SJ. Văn bản có tại: http://www.vatican.va/holy_father/francesco/speeches/2013/september/documents /papa-francesco_20130921_intervista-spadaro_en.html.

2. Đức Phanxicô, Niềm vui Tin Mừng, 66.

3. Hình ảnh hôn nhân Kitô giáo chạm tới “gốc rễ sâu xa nhất” của bản nhiên được lấy từ Matthias Scheeben, The Mysteries of Christianity [Các Mầu nhiệm của Kitô giáo], bản dịch của Cyril Vollert (St. Louis, MO: B. Herder Book Co., 1946), 610:

Trong bí tích này, Giáo hội giữ chặt trong trái tim mình mối quan hệ đầu tiên trong tất cả các mối quan hệ giữa con người với nhau, mối quan hệ mà sự hiện hữu và truyền bá bản chất con người phụ thuộc vào. Không nơi nào sự thật lại cho thấy rõ một cách nổi bật hơn rằng toàn bộ bản nhiên từ gốc rễ sâu xa nhất của nó đều chia sẻ sự thánh hiến cao cả của Thiên Chúa-làm người, Đấng đã nhận lấy bản nhiên cho chính mình. Không nơi nào sự thật cho thấy rõ ràng hơn rằng Chúa Kitô đã được đặt làm đá góc nhà mà Thiên Chúa dựa vào đó để bảo tồn và phát triển bản nhiên.

4. Lumen gentium, 11.

5. Walter Kasper, The Gospel of the Family [Tin Mừng Gia Đình], bản dịch của William Madges (New York: Nhà xuất bản Paulist, 2014).

6. Để có danh sách có chú thích các cuốn sách và bài viết về ly hôn được xuất bản trước năm 1979, xem Robert T. Kennedy và John T. Finnegan, “Select Bibliography on Divorce and Remarriage in the Catholic Church Today,” [Thư mục chọn lọc về Ly hôn và Tái hôn trong Giáo Hội Công Giáo Ngày nay] trong Mục vụ cho Người Công Giáo Ly hôn, James J. Young biên tập (New York: Paulist Press, 1979), 260–73. Để biết khảo sát về các tài liệu gần đây hơn, xem James H. Provost, “Intolerable Marriage Situations: A Second Decade,[Các hoàn cảnh hôn nhân không thề chịu đựng được: Thập niên thứ hai]” The Jurist 50 (1990): 573–612; và John P. Beal, “Intolerable Marriage Situations Revisited: Continuing the Legacy of James H. Provost,” [Xem lại những tình huống hôn nhân không thể chấp nhận được: Tiếp tục di sản của James H. Provost] The Jurist 63 (2003): 253–311.

7. X. Acta Synodalia Sacrosancti Concilii Oecumenici Vaticani Secundi, tập. 4, pars 3 (Vatican City: Typis Polyglottis, 1977), 45–47.

8. Sáng hôm sau (30 tháng 9 năm 1965), theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, lệnh phát biểu bị đình chỉ và Đức Hồng Y Journet được yêu cầu trả lời Zoghby. Trích dẫn Mc 10:2 và 1 Cr 7:10–11, Journet nói rằng “giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về tính bất khả tiêu của hôn nhân bí tích chính là giáo huấn của Chúa Giêsu đã được mặc khải cho chúng ta và luôn được bảo vệ và công bố trong Giáo Hội... Giáo hội không có thẩm quyền thay đổi những gì thuộc về thiên luật” (Acta Synodalia IV/3, 58, được trích dẫn trong History of Vatican II [lịch sử Vatican II], Giuseppe Alberigo chủ biên, tập 5 [Maryknoll, NY: Orbis Books, 2006], 159).

9. Charles E. Curran duyệt lại tài liệu về ly hôn được xuất bản từ năm 1966 đến năm 1974 trong “Divorce: Catholic Theory and Practice in the United States,” [Ly hôn: Lý thuyết và Thực hành Công Giáo ở Hoa Kỳ] The American Ecclesiastical Review 168 (1974): 3–34; 75–95. Xem thêm Urban Navarrete, “Indissolubilitas matrimonii rati et consummati. Opiniones recentiores et observationes,” [Tính bất khả tiêu của một cuộc hôn nhân thành sự và hoàn hợp. Những ý kiến và quan sát gần đây] Periodica 58 (1969): 441–93; Josephus F. Castaño, “Nota bibliographica circa indissolubilitatis matrimonii actualissimam quaestionem,” [Một ghi chú thư mục về vấn đề thực tế nhất về tính bất khả tiêu của hôn nhân] Angelicum 49 (1972): 463–502; Seamus Ryan, “Survey of Periodicals: Indissolubility of Marriage,” [Khảo sát các tạp chí định kỳ: Tính bất khả tiêu của hôn nhân] The Furrow 24 (1971): 107–22; Werner Löser, “Die Kirche zwischen Gesetz und Widerspruch: Für und wide eine Zulassung wiederver- heateter Geschiedener zu den Sakramenten,” [Giáo hội giữa luật pháp và mâu thuẫn: Ủng hộ và chống lại việc thừa nhận những người ly dị tái hôn lãnh nhận các bí tích] Herder-Korrespondenz 26 (1972): 243–48; Richard A. McCormick, “Notes on Moral Theology,” [Ghi chú về Thần học Luân lý] Nghiên cứu Thần học 32 (1971): 107–22; 33 (1972): 91–100; 36 (1975): 100–17.

10. “The Problem of Second Marriages: An Interim Pastoral Statement by the Study Committee Commissioned by the Board of Directors of the Catholic Theological Society of America,” [Vấn đề cuộc hôn nhân thứ hai: Tuyên bố Mục vụ Tạm thời của Ủy ban Nghiên cứu do Ban Giám đốc Hiệp hội Thần học Công Giáo Hoa Kỳ ủy quyền] Kỷ yếu của Hiệp hội Thần học Công Giáo Hoa Kỳ 27 (1972): 233–40.

11. James J. Rue và Louise Shanahan, The Divorced Catholic [Người Công Giáo Ly Dị] (Mahwah, NJ: Paulist Press, 1972); John Noonan, Jr., Power to Dissolve [quyền hủy tiêu](Cambridge, MA: Nhà xuất bản Đại học Harvard, 1972); Alcuin Coyle và Dismas Bonner, The Church Under Tension: Practical Life and Law in the Changing Church [Giáo Hội dưới căng thẳng: Đời sống thực tế và luật pháp trong Giáo hội đang thay đổi] (New York: Catholic Book Publishing Co., 1972); Divorce and Remarriage in the Catholic Church [Ly hôn và tái hôn trong Giáo Hội Công Giáo], Lawrence G. Wrenn chủ biên (New York: Neuman Press, 1973); Steven Joseph Kelleher, Divorce and Remarriage for Catholics? [Ly dị và tái hôn đối với người Công Giáo?] (Garden City, NY: Double-day, 1973); Dennis Doherty, Divorce and Remarriage [Ly hôn và tái hôn] (St. Meinrad, IN: Abbey Press, 1974). Danh sách các bài viết về ly hôn và tái hôn xem phần tham khảo ở ghi chú 6 và 9 ở trên.

12. Ehe und Ehescheidung: Diskussion unter Christen, ed. Franz Henrich và Volker Eid [Hôn nhân và ly dị: cuộc thảo luận giữa các Kitô hữu] (Munich: Kösel Verlag, 1972). Xem thêm Wie unauflöslich ist die Ehe: Eine Dokumentation [Hôn nhân bất khả tiêu như thế nào: Một bộ tài liệu], Jakob David và Franz Schmalz chủ biên (Aschaffenburg: Paul Pattloch Verlag, 1969).

13. Xem Divorce et indissolubilité du mariage. Congrès de l’Association de théologiens pour l’étude de la morale [Ly hôn và hôn nhân bất khả tiêu. Hội nghị của Hiệp hội thần học gia nghiên cứu luân lý) (Paris: Cerf, 1971).

14. Xem Recherches de Science Religieuse [nghiên cứu khoa học tôn giáo] 61 (1973): 483–624; 62 (1974): 7–116.

15. Edward Schillebeeckx, “Het christelijk huwelijk en de menselijke realiteit van volkomen huwelijksontwrichting,” [Hôn nhân Kitô giáo và thực tại nhân bản của sự tan vỡ hoàn toàn trong hôn nhân] Annalen van het Thijmgenoorschap (1970): 184–214. Bản dịch tiếng Anh “Christian Marriage and the Reality of Complete Marital Breakdown” [Hôn nhân Kitô giáo và thực tại nhân bản của sự tan vỡ hôn nhân hoàn toàn] trong Catholic Divorce: The Deception of Annulments [Ly dị Công Giáo: Sự lừa dối của việc tuyên bố vô hiệu], Pierre Hegy và Joseph Martos chủ biên (New York: Continuum, 2000), 82–107, ở 97.

16. Gaudium et spes, 48.

17. Điểm yếu chết người trong cách giải thích “duy nhân vị” của Gaudium et spes là không nắm bắt được tính khách quan của tình yêu được coi là “sự hiến thân hoàn toàn”. Xem Nicholas J. Healy, Jr., “Christian Personalism and the Debate Over the End of Marriage,” [Chủ nghĩa Nhân vị Kitô giáo và cuộc tranh luận về việc chấm dứt hôn nhân] Communio: International Catholic Review 39 (2012): 186–200, at 193: “Tình yêu vợ chồng bao gồm việc hiến dâng toàn bộ bản thân mà, do tự bản chất của nó, đã tạo nên một hình thức và bản thân nó là một hình thức. Việc trao hiến bản thân cho nhau làm cho hôn nhân thành hiện hữu sẽ đạt đến đỉnh cao ở chỗ việc hiến thân như thể được lấy khỏi bàn tay của đôi phối ngẫu và trở thành một hình thức khách quan được phú ban cho những đặc tính hiệp nhất và bất khả tiêu khách quan như vậy –không thể hủy tiêu chính vì việc hiến dâng bản thân có tính toàn bộ và không thể thu hồi.”

18. Theodore Mackin, “The International Theological Commission and Indissolubility,” [Ủy ban thần học quốc tế và tính bất khả phân ly] trong Divorce and Remarriage: Religious and Psychological Perspectives [Ly dị và tái hôn: Quan điểm tôn giáo và tâm lý], William R. Roberts chhủ biên (Thành phố Kansas, MO: Sheed and Ward, 1990), 59.

19. Joseph Ratzinger, “Zur Frage nach der Unauflöslichkeit der Ehe: Be-merkungen zum dogmengeschichtlichen Befund und seiner gegenwärtigen Bedeutung,” [Về vấn đề bất khả phân ly của hôn nhân: bình luận về những phát hiện lịch sử của tín điều và ý nghĩa hiện tại của nó] trong Ehe und Ehescheidung [Hôn nhân và ly hôn], 3–56; Karl Lehmann, “Unauflöslich- keit der Ehe und Pastoral für wiederverheiratete Geschiedene,” [Tính bất khả phân ly của hôn nhân và việc chăm sóc mục vụ cho những người tái hôn ly dị] Internationale Katholische Zeitschrift [tạp chí cg quốc tế] Communio (1972): 355–71. Bản dịch tiếng Anh“Indissolubility of Marriage and Pastoral Care of the Divorced Who Remarry". Communio: Tạp chí Công Giáo Quốc tế 1 (1974): 219–42.

20. Walter Kasper, Zur Theologie der christlichen Ehe [Về thần học hôn nhân Kitô giáo] (Mainz: Matthias- Grünewald Verlag, 1977). Phiên dịch tiếng Anh. Thần học hôn nhân Kitô giáo (New York: Ngã tư, 1981).

21. Trong một lá thư gửi cho The Tablet, công bố ngày 26 tháng 10 năm 1991, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã trả lời ý kiến của Theodore Davey cho rằng chính Ratzinger (viết với tư cách là một nhà thần học trước khi được thăng chức giám mục) đã chấp thuận giải pháp tòa trong để cho phép những người Công Giáo ly dị và tái hôn được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Câu trả lời của Ratzinger rất đáng chú ý cả về mặt phát triển tư tưởng của ngài cũng như về việc làm sáng tỏ các giới hạn của tòa trong. Về khía cạnh đầu, Đức Hồng Y Ratzinger rút lại “gợi ý” (“Vorschlag”) mà ngài đã đưa ra vào năm 1972 vì cho rằng không còn có thể đứng vững được nữa vì “Huấn quyền sau đó đã nói một cách dứt khoát về vấn đề này trong ngôi vị của Đức đương kim Giáo Hoàng trong Familiaris Consortio”. Về các giới hạn của tòa trong, ngài viết:

Liên quan tới “giải pháp tòa trong” như một phương tiện để giải quyết vấn đề tính thành sự của cuộc hôn nhân trước, Huấn quyền đã không cho phép sử dụng nó vì một số lý do, trong đó có mâu thuẫn cố hữu trong việc giải quyết một vấn đề nào đó ở tòa trong mà, tự bản chất, vốn liên quan và có những hậu quả quan trọng như vậy đối với tòa ngoài. Hôn nhân, không phải là một hành vi riêng tư, tất nhiên có ý nghĩa sâu xa đối với cả hai vợ chồng và con cái cũng như đối với Kitô giáo và xã hội dân sự. Chỉ có tòa ngoài mới có thể cung ứng sự bảo đảm thực sự cho người thỉnh cầu, bản thân họ không phải là một bên vô tư, rằng họ không phạm tội hợp lý hóa. Hơn nữa, tôi xin nói thêm rằng vô số hành vi lạm dụng được thực hiện dưới chuyên mục giải pháp tòa trong ở một số quốc gia đã chứng thực tính không khả thi thực tế của giải pháp tòa trong. Chính vì những lý do như vậy mà Giáo hội trong thời gian gần đây, đáng chú ý nhất là trong Bộ Giáo luật mới, đã mở rộng các tiêu chuẩn về việc có thể chấp nhận lời khai và bằng chứng tại các tòa án hôn nhân để nhu cầu nại tới giải pháp tòa trong sẽ không phát sinh nữa.

22. Xem Ladislas Örsy, “Intolerable Marriage Situations: Conflict Between External and Internal Forum,” [Những tình huống hôn nhân không thể chịu đựng nổi: Xung đột giữa tòa ngoài và tòa trong] The Jurist 30 (1970): 1–14; Bernard Häring, “Internal Forum Solutions to Insoluble Marriage Cases,” [Giải pháp tòa trong cho các trường hợp hôn nhân bất khả hủy tiêu] The Jurist 30 (1970): 21–30.

23. X. Giovanni Caprile, Il Sinodo dei vescovi: quinta Assemblea Generale [Thượng Hội đồng Giám mục: Phiên họp Toàn thể lần thứ năm] (26 settembre–25 ottobre 1980) (Rome: La Civiltá Cattolica, 1982); Jan Grootaers và Joseph A. Selling, The 1980 Synod of Bishops “On the Role of the Family”: An Exposition of the Event and an Analysis of Its Texts [Thượng Hội đồng Giám mục năm 1980 “Về vai trò của gia đình”: Trình bày về sự kiện và phân tích các nội dung của nó] (Leuven: Peeters, 1983).

24. Trích dẫn ở Caprile, Il Sinodo dei vescovi, 755.

25. Gioan Phaolô II, FC, 84.

26. Như trên.

27. Xem Kevin T. Kelly, Divorce and Second Marriage: Facing the Challenge [Ly hôn và hôn nhân lần thứ hai: Đối diện với thách đố] (London: Geoffrey Chapman, 1982); Gerald D. Coleman, Divorce and Remarriage in the Catholic Church [Ly hôn và Tái hôn trong Giáo Hội Công Giáo] (New York: Paulist Press, 1988); Bernard Häring, No Way Out? Pastoral Care of the Divorced and Remarried [Không lối thoát? Chăm sóc mục vụ cho người ly hôn và tái hôn] (Middlegreen, England: Nhà xuất bản St. Paul, 1990); Divorce and Remarriage: Religious and Psychological Perspectives [Ly hôn và Tái hôn: Quan điểm tôn giáo và tâm lý]; Margaret A. Farley, “Divorce, Remarriage and Pastoral Care,” [Ly dị, tái hôn và chăm sóc mục vụ] trong Thần học đạo đức: Những thách thức cho tương lai, Charles E. Curran chủ biên (New York: Nhà xuất bản Paulist, 1990): 213–39.

28. Xem Die Bischöfe der Oberrheinischen Kirchenprovinz, “Zur seelsorg- erlichen Begleitung von Menschen aus zerbrochenen Ehen, Geschiedenen und Wiederverheirateten Geschiedenen. Einführung, Hirtenwort und Grundsä-tze,” [Các Giám mục Giáo Tỉnh Upper Rhine, “Để hỗ trợ mục vụ cho những người đã trải qua những cuộc hôn nhân tan vỡ, những người ly hôn và những người tái hôn. Giới thiệu, Lời và Nguyên tắc Mục vụ] Herder-Korrespondenz 47 (1993): 460–67. Bản dịch tiếng Anh xuất hiện trong Kevin T. Kelly, Divorce and Second Marriage: Facing the Challenge [Ly hôn và hôn nhân lần thứ hai: Đối diện với thách đố], tái bản lần thứ 2. (London: Geoffrey Chapman, 1996), 90–117.

29. Bản văn có sẵn trực tuyến tại: http://www.vatican.va/roman_curia/congations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_14091994_rec-holy-comm-by-divorced_en.html.

30. Như trên.

31. X. Kenneth R. Himes và James A. Coriden, “Notes on Moral Theology: Pastoral Care of the Divorced Remarried,” [Ghi chú về Thần học Luân lý: Chăm sóc Mục vụ cho Người đã Ly hôn Tái hôn] Nghiên cứu Thần học 57 (1996): 97–123; Michael Lawler, “Divorce and Remarriage in the Catholic Church: Ten Theses,” [Ly dị và tái hôn trong Giáo Hội Công Giáo: Mười luận đề] New Theology Review 12 (1999): 48–63; Catholic Divorce: The Deception of Annulments [Ly hôn Công Giáo: Sự lừa dối của việc tuyên bố vô hiệu]; Eberhard Schockenhoff, Chancen zur Versöhnung? Die Kirche und die wiederverheirateten Geschiedenen [Cơ hội hòa giải? Giáo hội và những người tái hôn ly dị] (Freiburg: Herder, 2012).

32. Bản ghi lại cuộc phỏng vấn vào ngày 28 tháng 7 năm 2013 có tại: http://w2.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2013/july/documents/papa- francesco_20130728_gmg-conferenza-stampa.html.

33. Như trên.

34. Trong cuộc phỏng vấn với các nhà báo trên chuyến bay trở về từ chuyến hành hương đến Thánh địa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho rằng cuộc thảo luận xung quanh Thượng hội đồng đã tập trung quá hạn hẹp vào vấn đề rước lễ cho những người ly dị và tái hôn dân sự:

Thứ hai, cảm ơn bạn đã hỏi về vấn đề ly hôn. Thượng Hội đồng sẽ bàn về gia đình, vấn đề của gia đình, các kho báu của gia đình, tình hình hiện tại của gia đình. Bài nói chuyện mở đầu mà Đức Hồng Y Kasper trình bày có năm chương: bốn chương về gia đình, vẻ đẹp của gia đình, nền tảng thần học của nó và những vấn đề mà gia đình phải đối diện; trong khi chương thứ năm đề cập đến vấn đề mục vụ về ly thân, tuyên bố hôn nhân vô hiệu, người ly dị. Một phần của vấn đề này là vấn đề rước lễ. Tôi không mấy vui khi rất nhiều người - thậm chí cả những người trong giáo hội, các linh mục - nói: “À, Thượng Hội đồng sẽ bàn về việc cho người ly dị được rước lễ,” và đi thẳng vào điểm đó. Tôi cảm thấy như thể mọi thứ đang bị thu gọn lại thành khoa giải nghi học [casuistry]. Không, vấn đề lớn hơn và rộng hơn. Ngày nay, như tất cả chúng ta đều biết, gia đình đang gặp khủng hoảng, đang khủng hoảng trên toàn thế giới. Người trẻ không muốn kết hôn, không kết hôn hoặc sống chung. Hôn nhân đang khủng hoảng và gia đình cũng đang khủng hoảng. Tôi không muốn chúng ta rơi vào khoa giải nghi này “chúng ta có thể” hay “chúng ta không có thể?” Vì vậy tôi cảm ơn bạn rất quan tâm đến câu hỏi này vì nó cho tôi cơ hội để làm rõ điều này.

Đức Phanxicô, Phỏng vấn bởi các nhà báo trong chuyến bay trở về từ Thánh địa (26 tháng 5 năm 2014), http://w2.vatican.va/content/francesco/en/speech-es/2014/may/documents/papa-francesco_20140526_terra-santa -conferenza- stampa.html.

35. Kasper, Tin Mừng Gia Đình, 28.

36. Như trên.

37. Như trên, 29.

38. Như trên, 30.

39. Như trên, 32.

40. Như trên, 29.

41. Như trên, 45.

42. Đức Hồng Y Carlo Caffarra, “From Bologna With Love: Hold on a Moment!” [Từ Bologna với tình yêu: Hãy chờ một chút!] Il Foglio (14 tháng 3 năm 2014).

43. Cuộc phỏng vấn có tựa đề “Merciful God, Merciful Church: An Interview with Cardinal Walter Kasper,” [Thiên Chúa nhân từ, Giáo hội nhân hậu: Cuộc phỏng vấn với Đức Hồng Y Walter Kasper] của Matthew Boudway và Grant Gallicho có tại: https://www.commonwealmagazine.org/kasper-interview-popefrancis-vatican.

44. Như trên.

45. Như trên.

46. Như trên.

47. Caffarra, “From Bologna With Love.” [Từ Bologna với tình yêu].

48. Gioan Phaolô II, FC, 20.

49. Về nội dung và tư thế của học thuyết Giáo hội về tính bất khả tiêu của hôn nhân, xem Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Tòa Thượng thẩm Rôma, ngày 21 tháng 1 năm 2000:

“Thật là thích hợp khi trích dẫn Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, với thẩm quyền giáo lý lớn lao được trao cho nó nhờ sự tham gia của toàn thể Giám mục trong việc soạn thảo và bởi sự chấp thuận đặc biệt của tôi. Chúng ta đọc ở đó: ‘Như vậy, mối dây hôn nhân đã được chính Thiên Chúa thiết lập đến mức hôn nhân đã thành sự và hoàn hợp giữa những người đã được rửa tội không bao giờ có thể bị hủy bỏ. Mối ràng buộc này, là kết quả của hành vi tự do nhân bản của vợ chồng và sự hoàn hợp hôn nhân của họ, là một thực tại, từ đó không thể hủy bỏ, và làm nảy sinh một giao ước được bảo đảm bởi lòng chung thủy của Thiên Chúa. Giáo hội không có quyền đi ngược lại sự sắp xếp này của sự khôn ngoan thần linh’ (số 1640). Trên thực tế, Giám Mục Rôma có ‘sacra potestas’ [thẩm quyền thánh thiêng] để giảng dạy sự thật của Tin Mừng, ban bố các bí tích và quản lý Giáo hội về phương diện mục vụ nhân danh và với thẩm quyền của Chúa Kitô, nhưng quyền này không bao gồm bất cứ quyền lực nào đối với luật Thiên Chúa, luật tự nhiên hay luật thực định. Cả Kinh thánh lẫn Truyền thống đều không thừa nhận bất cứ năng quyền nào của Giám Mục Rôma trong việc tiêu hủy một cuộc hôn nhân đã thành sự và hoàn hợp; trái lại, việc thực hành liên tục của Giáo hội cho thấy Truyền thống biết rõ rằng một năng quyền như vậy không hề hiện hữu. Những lời phát biểu mạnh mẽ của các Giám mục Rôma chỉ là tiếng vang trung thực và cách giải thích xác thực về niềm xác tín lâu dài của Giáo hội. Như thế, xem ra khá rõ ràng rằng việc không mở rộng quyền của Giáo hoàng Rôma đối với các cuộc hôn nhân bí tích đã được phê chuẩn và hoàn hợp đã được Huấn quyền của Giáo hội dạy như một học thuyết phải được giữ một cách dứt khoát, ngay cả khi nó chưa được tuyên bố long trọng bằng một đạo luật xác định. Trên thực tế, học thuyết này đã được các Giám Mục Rôma đề xuất rõ ràng bằng những thuật ngữ dứt khoát, một cách liên tục và trong một khoảng thời gian đủ dài. Nó được biến thành của riêng các ngài và được tất cả các Giám mục giảng dạy trong sự hiệp thông với Tòa Phêrô, với ý thức rằng nó phải luôn được các tín hữu tuân giữ và chấp nhận”.

50. Kasper, Theology of Christian Marriage (Thần học Hôn nhân Kitô giáo], 64.

51. http://www.osservatoreromano.va/en/news/the-pastoral-approach-to-marriage-must-be-founded-.

52. Sacrosanctum concilium, 59.

53. Để có một suy tư tuyệt vời về mối quan hệ giữa đức tin và bí tích trong hôn nhân, hãy xem bài viết của José Granados trong số này, “The Sacramental Character of Faith: Consequences for the Debate on the Relation Between Faith and Marriage,” [Đặc điểm bí tích của đức tin: Hậu quả của cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa đức tin và hôn nhân] Communio: International Catholic Review 41 (Mùa hè 2014): 245–68.

54. Đức Bênêđíctô XVI, Diễn văn với các giáo sĩ giáo phận Aosta (25 tháng 7 năm 2005) http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2005/july/doc- uments/hf_ben-xvi_spe_20050725_diocesi-aosta_en.html.

55. Đức Bênêđíctô XVI, Diễn văn tại Tòa Thượng thẩm Rôma (26 tháng 1 năm 2013).

56. Trong Nghi thức Hôn phối, cặp đôi được hỏi: “Các con có đón nhận những đứa con Chúa ban một cách yêu thương không?”

57. Đức Bênêđíctô XVI, Diễn văn tại Tòa Thượng thẩm Rôma (26 tháng 1 năm 2013).

58. X. Joseph Ratzinger, Daughter Zion: Meditations on the Church’s Marian Belief [Nử tử Xion: Suy ngẫm về niềm tin Thánh Mẫu của Giáo hội], bản dịch của John M. McDermott (San Francisco: Ignatius Press, 1983), 23: “Hôn nhân là hình thức của mối quan hệ hỗ tương giữa vợ và chồng phát sinh từ giao ước, mối quan hệ căn bản của con người mà toàn bộ lịch sử nhân loại dựa trên đó. Nó mang trong mình một thần học, và thực sự nó chỉ khả hữu và hiểu được về mặt thần học.”

59. Kasper, Gospel of the Family [Tin Mừng Gia Đình], 47.