3. Một Sự Hiệp Thông Sinh Hoa Trái, Bất Khả Tiêu
Ngoài việc được sự hiến bản thân toàn diện của vợ chồng đòi hỏi, tính bất khả tiêu còn được tính sinh hoa trái vốn có của sự kết hợp hôn nhân đòi hỏi nữa. (30) Tuy nhiên, thật khó để hiểu tại sao tính sinh hoa trái lại đòi hỏi tính bất khả tiêu khi một người sống trong một nền văn hóa nuôi dưỡng sự tách biệt chức năng làm cha và làm mẹ khỏi tình yêu vợ chồng và tách biệt hai việc này khỏi sự thân mật tình dục. Khi “hoa trái” được hiểu một cách hạn chế chỉ để ám chỉ đến đứa con, và việc kết hợp tính dục hoặc bị tách rời khỏi việc sinh sản đứa con hoặc được sử dụng như một phương tiện để đạt mục đích đó, thì mối liên hệ nội tại giữa tính bất khả tiêu và tính sinh hoa trái bị che mờ. (31) Thay vào đó, một sự hiểu biết đầy đủ hơn về tính sinh hoa trái, coi con cái phát sinh từ việc hiến bản thân hỗ tương của vợ chồng, sẽ giúp chúng ta nhận ra tính bất khả tiêu, tính sinh hoa trái và hồng ân con cái tạo thành một tổng thể riêng của hôn nhân ra sao.
Nếu tình yêu vợ chồng, như chúng ta đã thấy, trong căn bản, là một sự trao hiến bản thân hoàn toàn, luôn mới mẻ và mang tính bản vị, thì trước hết nó mang lại hoa trái về mặt thiêng liêng: Thứ nhất, hôn nhân biến đôi vợ chồng thành những ngôi vị bằng cách đưa họ sống cho nhau và cho sứ mạng và số phận mà tình yêu vợ chồng của họ đã được giao phó cho. Thứ hai, sự kết hợp hôn nhân mang lại hoa trái thiêng liêng vì nó có thể tham gia vào việc tạo ra một hữu thể thiêng liêng khác, một đứa con. (32) Như thế, tính sinh hoa trái thiêng liêng của việc kết hợp vợ chồng phát sinh từ và làm phát sinh sự tự hiến hoàn toàn về mặt thể xác, nhưng việc tự hiến về thể xác này chỉ là một “dấu hiệu và hoa trái của việc tự hiến bản thân hoàn toàn” khi nó “đáp ứng những đòi hỏi của việc sinh sản có trách nhiệm.” (33) Sự hiểu biết của chúng ta về tình yêu cung ứng ít nhất hai lý do cho mối quan hệ hữu cơ giữa tính bất khả tiêu và tính sinh hoa trái: việc sinh hoa trái của việc tự hiến và khả năng tham gia vào chính việc tự hiến vốn tạo nên người ta như một bản vị.
Thành quả tình yêu của vợ chồng đòi hỏi sự hiện hữu của một người thứ ba mà với họ, cả hai có thể chia sẻ niềm vui được người kia yêu thương. Trong hôn nhân, tính sinh hoa trái là một hồng phúc mà các cặp vợ chồng phải đón nhận nếu nó được ban cho. (34) Một khi đứa con ra đời, nó bộc lộ và nâng cao tính sinh hoa trái chứa đựng trong tình yêu vợ chồng bằng cách làm sáng tỏ tính khác lẫn nhau của vợ chồng và tính khác của sự hiệp thông trong đó họ sống với nhau. Ngược lại, sự vắng mặt có chủ ý của đứa con ngăn cản vợ chồng tôn trọng và yêu thương người kia vì chính họ. Nếu không có sự hiện diện bất ngờ của đứa con, mỗi người phối ngẫu sẽ hoặc khẳng định người kia và phủ nhận chính mình hoặc dùng người kia để khẳng định chính mình. Trong trường hợp trước, tình yêu là đức ái [agapic] mà không gợi dục [erotic], và trong trường hợp sau, nó gợi dục mà không có đức ái. Trong cả hai trường hợp, không có sự hiệp thông thực sự, sống động giữa vợ chồng và không có sự hiến thân thực sự. Thực vậy, như chúng ta nói, nếu việc tự hiến đồng thời bao gồm việc đón nhận người khác và đáp lại người khác, thì người phối ngẫu nào nhận mà không cho là người thèm muốn mà không yêu thương (eros), giống như người phối ngẫu cho mà không muốn nhận (hoặc được nhận) là người chỉ quan tâm đến khả năng yêu thương (agape) của chính mình. Tất nhiên, trong sự hiệp thông của tình yêu, khi một trong hai chiều kích này bị mất đi thì chiều kích còn lại sẽ còn lại dưới một hình thức đồi trụy, tức là dưới hình thức quyền lực. Mối liên hệ giữa việc tan vỡ hiệp thông và việc từ chối đón nhận con cái trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta thấy, theo cách này, việc sử dụng quyền lực biểu hiện sự phủ nhận của một người đối với những gì không phải là chính mình. Tuy nhiên, khi đứa trẻ được chào đón, nó giúp cho việc sinh hoa trái của sự kết hợp bất khả tiêu đạt được chiều sâu trọn vẹn của nó chính vì nó vừa là món quà đáng kinh ngạc của tình yêu cha mẹ, phát xuất từ một nguồn bên ngoài họ, vừa là món quà đại diện cho sự kết hợp của họ như một điều khác. Là dấu hiệu của sự kết hợp, đứa trẻ nhắc nhở cha mẹ rằng họ tham gia vào một tình yêu lớn hơn những gì đôi khi họ cảm nhận hoặc hiểu được. Là hoa trái, đứa trẻ là ký ức nhắc họ nhớ họ được trao ban cho nhau và do đó muốn được chào đón lẫn nhau và phục vụ lẫn nhau. Như vậy, đứa trẻ cho phép họ nhìn sâu hơn về sự hữu hạn của chính họ và chiều sâu tình yêu của họ, và bằng cách này, họ có thể chia sẻ niềm vui hôn nhân của mình một cách trọn vẹn hơn.
Lý do thứ hai của mối liên hệ hữu cơ giữa tính bất khả tiêu và tính sinh hoa trái là nó thuộc về bản chất của việc hiến tặng được phép tham gia vào việc cho đi. Chúng ta đã thấy, việc con người được trao tặng trọn vẹn cho chính họ đã giúp họ có thể hiến thân cho người bạn đời của mình và hứa hẹn sự chung thủy trọn vẹn. Điều đó cũng có nghĩa là vợ chồng cùng với nhau được tham gia vào việc trao ban sự sống mới. Đức Gioan Phaolô II nói: “Tình yêu vợ chồng không chỉ dừng lại ở cặp đôi, bởi vì nó làm cho họ có khả năng nhận được món quà lớn nhất có thể, món quà giúp họ trở thành những người cộng tác với Thiên Chúa để ban sự sống cho một con người mới. Như vậy, vợ chồng, trong khi hiến thân cho nhau, không chỉ trao ban chính mình mà còn cả thực tại con cái nữa.” (35) Cũng như lý do thứ nhất, ở đây, đứa con cũng không thể làm cho việc kết hợp bất khả tiêu thành khả hữu; điều này chỉ được thực hiện bởi sự ưng thuận. Tuy nhiên, đứa trẻ tiết lộ điều này: lòng trung thành chứa đựng trong nó việc người ta cho phép một người khác bước vào hiện hữu, một con người cũng sẽ được trao ban cho chính họ và do đó có thể truyền đạt sự sống xa hơn. (36) Tóm lại, tính sinh hoa trái và tính bất khả tiêu luôn đi đôi với nhau bởi vì hoa trái thiêng liêng không thể tách rời khỏi sự hiến bản thân hoàn toàn, một món quà, như chúng ta đã thấy, do chính bản chất, là không thể phân hủy. Hoa trái thiêng liêng này, và tính bất khả hủy tiêu, cũng gắn liền với việc tự hiến về mặt thể xác và thực con cái đáng tại đáng kinh ngạc, sự cởi mở đối với chúng là nội tại trong kết hợp hôn nhân, và trong chúng sự kết hợp này có thể tham gia vào việc cho đi.
4. Kết Hôn Trong Chúa
Tuy nhiên, chỉ vì đạo đức hôn nhân (tức là cách vợ cHồng Yêu nhau) bắt nguồn từ hữu thể học quà tặng, nên không phải mọi cuộc hôn nhân đều chung thủy một cách cố hữu, như chúng ta biết. Tình yêu vợ chồng không phải là sự nở hoa tất yếu và máy móc của việc hiến thân của con người, mà quyết định ly hôn cũng không phải là bằng chứng cho thấy ngay từ đầu chưa bao giờ có hôn nhân. Tình yêu, và luận lý quà tặng của nó, chứa đựng trong nó khả thể từ chối quà tặng. Mặc dù mỗi người luôn có khả năng tham gia vào sự thật của việc tự hiến, nhưng vì con người bị phó mặc cho sự yếu đuối nội tại của chính họ – tức khuynh hướng không thể vượt qua muốn tự cho mình là tác giả của chính mình – nên con người, với thời gian, không thể tự mình duy trì việc trao tặng bản thân cho người phối ngẫu của mình. Tự mình, họ không thể ở mãi trong sự thật của việc hiến tặng và do đó không thể sống mà không hoặc tự phụ về thước đo của mình hoặc tự đánh lừa mình một cách tuyệt vọng. Cường độ gây ấn tượng của những câu hỏi liệu tính bất khả tiêu có thực sự là một chiều kích của tình yêu vợ chồng hay chỉ là một lý tưởng lãng mạn không thể đứng vững phát sinh từ kinh nghiệm về nghịch lý này: người ta muốn và biết mình được tạo dựng để hiệp thông, tuy nhiên người ta không có khả năng thực hiện điều đó. Sự hiệp thông phải được trao ban. Do đó, những câu hỏi khó hiểu được đặt ra lúc đầu có một khía cạnh xác đáng, tuy nhiên những khó khăn mà chúng nêu ra cần phải được nhìn từ quan điểm hồng ân hiện hữu và ân sủng hôn nhân, chứ không chỉ từ quan điểm khả năng của con người. Trước việc thiếu khả năng ở mãi trong sự thật của tình yêu, người ta có thể hoặc quay sang nhà nước để yêu cầu nhà nước giải quyết điều mà tự do của chính mình không thể làm được – một điều có nghĩa là người ta vẫn giữ ảo tưởng rằng tự do và quyền lực của mình hoàn toàn phát xuất từ chính mình, như chúng ta đã thấy trong phần đầu – hoặc chờ đợi để nhận được từ đấng trao ban khởi đầu những gì người ta không có đủ khả năng mang lại.
Trước điểm yếu này, một số nhà thần học đương thời – có lẽ bị thúc đẩy bởi những khó khăn mà các cặp vợ chồng gặp phải trong việc duy trì sự chung thủy, và bị thu hút bởi cách thực hành mục vụ khoan dung hơn của các giáo hội Đông phương (37) – tự hỏi liệu có thể xem lại cách hiểu của huấn quyền về tính bất khả tiêu của hôn nhân hay không. Họ đề nghị làm như vậy để có chỗ cho một số ngoại lệ mà không vứt bỏ “sứ điệp rất cần có” của Giáo hội về tính bí tích và vĩnh viễn của hôn nhân hoặc đánh mất “chứng tá quan trọng” của việc “duy trì tính nên một và vĩnh viễn của hôn nhân.” (38) Những gợi ý này phát xuất từ sự hiểu biết về hôn nhân vốn coi sự hiệp thông giao ước của cuộc sống và tình yêu chủ yếu là một thực tại luân lý, một thực tại, xét trong chính nó, có thể giản lược vào các cặp vợ chồng và do đó có thể thất bại. (39) Trong khi các bước trước đây trong suy tư của chúng ta đã tìm cách trả lời chủ trương này bằng cách chỉ rõ việc một hữu thể học quà tặng đặt cơ sở và đòi hỏi tính bất khả tiêu của hôn nhân như sự hoàn thành việc tự hiến tự do, nhưng không và toàn diện của vợ chồng, giờ đây, nhận ra rằng chỉ bản chất con người thôi thì không đủ để duy trì quà tặng này, chúng ta cần làm sáng tỏ ý nghĩa trong đó sự hiệp thông sự sống và tình yêu được Chúa Kitô cứu chuộc và tìm thấy trong tình yêu của Người dành cho Giáo hội (Eph 5:32) sự viên mãn mong muốn và không thể lường trước được của nó.
Việc tìm kiếm một ngoại lệ đối với quy luật bất khả tiêu của Chúa Kitô không có gì mới. Trong khi ý thức được vẻ đẹp của hôn nhân cũng như nhiệm vụ của cả việc làm cha mẹ lẫn công việc trong thế giới đi kèm với nó, các môn đệ của Chúa Giêsu cũng quen thuộc với “sự cứng lòng” khiến việc ly hôn trở thành một lựa chọn được hoan nghênh (Mt 19:8–9). Đó là lý do tại sao, mặc dù đã nghe Chúa Giêsu giải thích việc người ta phải luôn tha thứ cho anh em mình và Chúa Cha sẽ đối xử với những ai đã được tha thứ mà không tha thứ ra sao (Mt 18:21-35), khi các tông đồ nghe Chúa Kitô xác nhận tính bất khả tiêu của hôn nhân (Mt 19:4-9), các ông đã không thể không thốt lên: “Nếu một người đàn ông đã có vợ như vậy, thì cưới vợ là điều không nên.” (Mt 19:10). Chúa Kitô thiết lập điều mà hữu thể học và kinh nghiệm tình yêu của con người gợi ý là phải như vậy, đồng thời, đòi hỏi chính điều mà con người nghĩ là bất khả: tính bất khả tiêu của hôn nhân là tuyệt đối. Khi làm như vậy, Chúa Kitô cũng mặc khải rằng một ân sủng đặc biệt, một đặc sủng, được ban để những ai được mời gọi kết hôn có thể tiếp nhận và sống ân sủng đó một cách trọn vẹn. (40) Như thế, họ sẽ được chữa lành khỏi sự cứng lòng, và tình yêu thương nhau của họ sẽ được nâng cao để tham dự vào tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo hội, nhờ đó cuối cùng họ sẽ trở thành nhân bản. (41)
Việc phân tích cẩn thận theo khoa chú giải, ngay cả khi thừa nhận sự yếu đuối của con người và lịch sử phức tạp đằng sau vấn đề bất khả tiêu, đều nhất trí ủng hộ bản chất tuyệt đối của lệnh cấm ly dị của Chúa Kitô. (42) Chúa Giêsu xác nhận điều Thiên Chúa đã ấn định ngay từ đầu cho người nam và người nữ và cấm mọi người phân ly điều Thiên Chúa đã nối kết (Mt 19:4–6). Trong khi một số đoạn bày tỏ rõ ràng rằng hôn nhân là bất khả tiêu, không có ngoại lệ, (43) ý nghĩa của các cụm từ ngoại lệ trong Mátthêu 5:32 và 19:9 đã thu hút nhiều sự chú ý nhất vì nó dường như mâu thuẫn với lệnh cấm tuyệt đối của Chúa Giêsu. (44)
Một số người giải thích điều khoản “trừ nố porneia” (Mt 19:9) là “trừ trường hợp ngoại tình,” và do đó cho phép ly dị và tái hôn khi ngoại tình xảy ra. Tuy nhiên, bản dịch này không giải thích được tại sao các tông đồ lại sửng sốt trước lời nói của Chúa Kitô; (45) cũng như bối cảnh trực tiếp của Thánh Mátthêu, trong đó Chúa Giêsu nói về sự tha thứ vô điều kiện (Mt 18:21–35); và việc các Tin Mừng nhất lãm khác trong đó không có mệnh đề ngoại lệ. Các nhà chú giải khác cho rằng điều khoản ngoại lệ trong Mátthêu 19:9 chỉ đề cập đến việc bỏ người vợ ngoại tình chứ không nói đến khả thể có một cuộc hôn nhân mới. (46) Vì ở đây không có chỗ để diễn lại một cuộc tranh luận dài và phức tạp, chỉ cần nêu ra một cách giải thích khác hợp lý và phù hợp với Kinh thánh và truyền thống của Giáo hội là đủ. Giải trình này đi sâu vào ý nghĩa của thuật ngữ porneia. (47) Các tác giả ủng hộ quan điểm này minh xác rằng porneia không nên được dịch là “ngoại tình” vì đã có một từ khác chỉ tội ngoại tình chính xác hơn porneia và từ này cũng được dùng trong Kinh Thánh: moicheia (Mt 15:19; Mc 7:21; Ga 8:3). Theo quan điểm này, porneia tương đương với zenût trong tiếng Do Thái, coi những cuộc hôn nhân ngoài giá thú (như hôn nhân của Hêrốt, Mt 14:3–4) bị Luật pháp cấm (Lv 18:10, 20:21). Khi đó, porneia ám chỉ một cuộc hôn nhân không thành sự ngay từ đầu. Do đó, những điều khoản ngoại lệ thay vì làm nhẹ đi việc cấm ly hôn, lại khẳng định tính bất khả tiêu của hôn nhân. Cách giải thích Kinh thánh này cũng nhất quán với cách đọc của các Giáo phụ, những người mà Mátthêu 19:9 gợi ý về khả thể ly thân với người phối ngẫu trong trường hợp ngoại tình nhưng không phải là kết hôn lần nữa. (48) Kiểu ly thân này là một thực hành của Giáo Hội sơ khai và được bảo vệ tại Công Đồng Trent. (49)
Vì vậy, giáo huấn duy nhất của cả Kinh thánh lẫn Giáo hội là: hôn nhân là bất khả tiêu không có ngoại lệ, tuy nhiên Chúa Kitô không đặt ra một tiêu chuẩn cao như vậy cho con người và sau đó bỏ mặc họ đáp ứng tiêu chuẩn đó bằng chính sức lực của họ. Đúng hơn, nếu khi tạo dựng con người, Thiên Chúa luôn có ý kết hợp con người với chính Người trong Con của Người (Cl 1:15-20), và nếu, như Kinh thánh liên tục khẳng định, sự kết hợp này là mối quan hệ hôn nhân của tình yêu, thì việc dâng mình có tính hiến tế của Chúa Kitô trên Thập giá vì Giáo hội cung ứng khả thể để các cặp vợ chồng tham gia vào tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo hội trong và qua tình yêu mà họ đã được trao ban để dành cho nhau. (50) Lời của Thánh Phaolô mời gọi những người chồng hãy “yêu thương vợ của họ, như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội và phó mình cho Giáo Hội” (Eph 5:25), và mời gọi các người vợ “phục tùng chồng mình trong mọi việc,” cũng như “Giáo Hội phục tùng Chúa Kitô” (Eph 5 :24), là một đề nghị tham gia thực sự vào tình yêu của Chúa Kitô, chứ không phải một bài phát biểu mang tính thành kiến hay khuyên dạy về mặt văn hóa. (51) Vợ chồng có thể chung thủy với nhau, ở mãi trong sự thật của tình yêu của mình, bởi vì họ được dẫn dắt yêu thương như Chúa Kitô yêu thương: đến cùng, với tất cả bản thân mình, một cách nhưng không, vì vinh quang Chúa Cha, và ban cho những ai đón nhận Người khả thể trở thành bạn hữu của Người và từ đó tham gia vào sứ mạng của Người. Chiều kích nâng cao này của ân sủng hôn nhân cũng tượng trưng cho việc chữa lành khuynh hướng cho đến lúc đó không thể vượt qua là tìm kiếm hạnh phúc và sự cứu rỗi trong quyền lực phát xuất từ chính mình. Do đó, vợ chồng tham gia vào cách nhìn của Chúa Kitô (đức tin), yêu thương (đức mến) và sống trong thời gian (đức cậy). Do đó, không phải Chúa Kitô chỉ ban cho các cặp vợ chồng ân sủng không rời bỏ nhau – như thể sự bất khả tiêu chỉ là sự chống lại thời gian trôi qua. Là một bí tích cứu chuộc trong giao ước mới, hôn nhân là bất khả tiêu vì vợ chồng được ban ân sủng để yêu thương nhau bằng tình yêu vô điều kiện và nhưng không của Chúa Kitô. Bằng cách này, khi chu toàn hôn nhân như một bí tích của sáng thế, hay bí tích tự nhiên, hôn nhân như một bí tích cứu chuộc - nghĩa là hôn nhân của hai Kitô hữu đã được rửa tội - là một dụ ngôn về sự kết hợp thánh thể giữa Chúa Kitô Chàng Rể và Giáo Hội cô dâu của Người. Như vậy, nó là việc tưởng niệm, hiện thực hóa và lời tiên tri của Mầu Nhiệm Vượt Qua. (52) Theo nghĩa này, tình yêu vợ chồng với luận lý tự hiến hoàn toàn của nó không phải chỉ những gì nó là lúc ban đầu, tức là khi nó chỉ đơn giản là một bí tích của sáng thế.
Vì tình yêu của Chúa Cha “đã được đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta” (Rm 5:5), ý nghĩa trọn vẹn của sự kết hợp hôn nhân bất khả tiêu được mặc khải trong Chúa Kitô đến với các cặp vợ chồng Kitô giáo từ bên trong tình yêu hôn nhân của họ thông qua Chúa Thánh Thần. Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà người nam và người nữ được làm cho biết và yêu nhau. Chúa Thánh Thần cũng ban cho họ niềm hy vọng rằng Đấng mà trong Người họ đã chịu phép rửa cũng sẽ ứng nghiệm lời hứa chứa đựng trong ơn gọi hôn nhân của họ. Chúa Thánh Thần ban cho đôi bạn đức tin mà họ cần để họ có thể nhận ra Chúa Kitô là Con yêu dấu của Chúa Cha – và do đó là logos [số phận] và telos [cứu cánh] của tình yêu hôn nhân của họ – và phó thác bản thân họ cho Người. Khi đôi vợ chồng nói lời ưng thuận hữu hiệu của họ trong hành vi đức tin yêu thương này, Chúa Thánh Thần làm thành khả hữu việc Chúa Kitô tiếp nhận đôi vợ chồng vào lễ hiến tế chính Người lên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. (53) Bằng cách này, toàn bộ con người của mỗi người phối ngẫu và tình yêu thương nhau của họ trở thành một phần tình yêu của Chúa Kitô dành cho Chúa Cha. Chúa Cha hài lòng với việc dâng hiến chính họ cho Chúa Kitô diễn ra trong phụng vụ hôn nhân, chúc lành cho sự kết hợp của họ và gửi cho họ Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Con Người. Nếu họ kết hôn trong Chúa Kitô và trong tình yêu của Người dành cho Giáo hội, thì “Chúa Thánh Thần là dấu ấn giao ước của họ, là nguồn tình yêu luôn sẵn có và sức mạnh để canh tân lòng chung thủy của họ” (54)
Chiều kích thần khí này của ân sủng hôn nhân Kitô giáo cho phép chúng ta thấy rằng chính nhờ Chúa Thánh Thần mà đôi vợ chồng nhận được tình yêu của Chúa Kitô một lần nữa và được dẫn dắt yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương Giáo hội. (55) Tình yêu của họ, sự hiến thân toàn diện và có tính bản vị của họ, được củng cố, cứu chuộc, và được thánh hóa khi ngày càng trở nên giống Chúa Kitô hơn. Tuy nhiên, vì tình yêu của Chúa Kitô Chàng Rể dành cho Hiền Thê của Người là Giáo Hội cũng là một sự hiệp thông không thể phân ly, nên Chúa Thánh Thần – ngoài việc được ban cho như Đấng thánh hóa và ban các ân sủng – cũng được Chúa Cha của Chúa Kitô ban cho như là Ngôi-Ân Ban, Ngôi- Hiệp Thông. (56) Như vậy, giống như việc được tháp nhập vào Chúa Kitô làm cho những người được nhận lãnh phép rửa trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, thì Chúa Thánh Thần cũng được ban cho các cặp vợ chồng “như sự hiệp thông tình yêu của Chúa Kitô và Giáo hội.” (57) Ân sủng bản vị này được trao cho các cặp vợ chồng trong phụng vụ hôn nhân là “ơn hiệp thông mới của tình yêu vốn là hình ảnh sống động và chân thực của sự hiệp nhất độc nhất làm cho Giáo hội trở thành Nhiệm thể bất khả phân rẽ của Chúa Giêsu.” (58) Như vậy, đây là ý nghĩa trọn vẹn của mối dây hôn nhân Kitô giáo vừa củng cố vừa nâng cao, và do đó mang lại sự thành toàn lớn hơn cho tình yêu tự nhiên của vợ chồng.
Vì Thánh Thần của Chúa Cha và Chúa Con vừa là mối dây thiết yếu vừa là hoa trái của tình yêu Chúa Cha và Chúa Con, tức là ngôi vị trong đó các vị là một, nên Người không những chỉ thông truyền tình yêu Ba Ngôi của Thiên Chúa từ bên trong cuộc sống của vợ chồng— như chúng ta đã thấy, bằng cách cung ứng cho họ khả thể qua đó, tình yêu bản vị của họ dành cho nhau được hướng dẫn bằng đức tin, đức cậy và đức mến và từ đó đi vào sự vâng phục, tín thác và tình yêu trinh khiết của Chúa Kitô. (59) Người cũng tiết lộ lý do tại sao tình yêu bản vị, hôn nhân của họ khác với họ dù hoàn toàn là của họ. Khi được Chúa Kitô tiếp nhận nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của vợ chồng – cho dù mãnh liệt và hy sinh đến đâu – cũng được nâng cao vượt lên trên chính nó và trở thành một phần của tình yêu-hiệp thông khách quan của Chúa Thánh Thần. Trong lịch sử, tình yêu này mang hình thức tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo hội, vì tình yêu của Chúa Kitô cũng là tình yêu của Chúa Cha ban cho Giáo hội qua Chúa Thánh Thần. Ở đây, tính bất khả tiêu tự nhiên của hôn nhân như một bí tích của sáng thế được củng cố, ban sinh lực và nâng cao, bởi vì giờ đây nó không chỉ phản ảnh bản chất của một Thiên Chúa duy nhất mà còn tham gia một cách bí tích vào tình yêu vốn là Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là lý do tại sao, trong bí tích hôn nhân, chính tình yêu của vợ chồng trở thành một qui chuẩn khách quan đối với họ, một hình thức họ phải tuân theo, vì việc tham gia vào tình yêu của Thiên Chúa và do đó cao cả hơn họ vô cùng, nó có chiều sâu và một định mệnh có thể làm cho sự hiện hữu của họ thành toàn một cách dư dật. Tuy nhiên, điều mầu nhiệm là sự tham gia này mang tính bí tích; nghĩa là nó đi vào và xuyên qua tình yêu thực sự và đời sống chung của vợ chồng. Bởi vì bí tích hiện hữu trong thực tại hàng ngày của cuộc sống hôn nhân, các cặp vợ chồng sẽ luôn phải đối đầu với cơn cám dỗ nghĩ rằng cuộc sống này chính là do họ tạo ra. Tuy nhiên, nếu vợ chồng Kitô giáo không bằng lòng ở lại bề mặt của cuộc sống chung, thay vào đó, tự do và hân hoan để mình được dẫn dắt bởi tình yêu vốn cho phép họ hiện hữu, thì họ càng ngày càng nhận ra một cách sâu sắc hơn rằng trong cuộc trao đổi lời thề bí tích này, tình yêu của họ nhận được một hình thức Ba Ngôi: nó già vì nó bắt đầu từ Chúa Cha; nó trẻ, vì trong Chúa Kitô nó ở trong tình yêu của Chúa Cha; và là tình yêu như sự hiệp thông sinh hoa trái, vì trong Chúa Thánh Thần, tình yêu của họ tham gia vào sự sâu sắc vô tận của tình yêu Thiên Chúa và sứ mạng của Chúa Kitô.
Như thế, khi tham gia vào sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, sự hiệp thông của vợ chồng là dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót mà chúng ta có thể hiểu như phép lạ của việc phục hồi nhưng không sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa, với nhau và với thế giới. Nhờ sự hiệp nhất được tái lập này, tình yêu của con người, trong Chúa Kitô và qua Chúa Thánh Thần, trở nên có lòng thương xót giống như tình yêu của Chúa Cha. Vì vậy, lòng thương xót của Thiên Chúa, trở thành hiện diện trong lịch sử nơi Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh, còn mãi trong lịch sử qua hai hình thức của tình yêu nhân bản này: bí tích hôn nhân bất khả tiêu và sinh hoa trái, và đức trinh khiết thánh hiến. Thay vì cứng cỏi trước nỗi đau khổ của các cặp vợ chồng hay sự chống đối ly hôn một cách vô lý và mang tính ý thức hệ, việc Giáo hội bảo vệ tính bất khả tiêu của hôn nhân là việc can đảm công bố lòng thương xót của Thiên Chúa cũng như quyền năng cứu chuộc và chữa lành của thập giá và sự phục sinh của Chúa Kitô. Ân sủng của Chúa Kitô không chỉ đơn thuần là việc ban cho sức mạnh để chịu đựng sự hiện hữu lịch sử mà còn là hồng ân tham gia vào tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo hội, trong đó tình yêu hôn nhân trở nên chân thực hơn; nghĩa là, vợ chồng được ban cho để tận hưởng sự thân mật nhân bản lớn lao hơn, tính sinh hoa trái sâu sắc hơn, và qua tính cụ thể của hai điều này, một sứ mạng phổ quát.
Còn 1 kỳ