Bài của José Granados

“Việc thuộc về thân xác duy nhất của Chúa Giêsu và Giáo Hội
là điều làm cho thân xác duy nhất của vợ chồng trở nên mới mẻ,
đóng dấu nó bằng cùng một tính chất bất khả phân ly của
Tình yêu của Chúa Kitô dành cho các chi thể của Người.”


Trong chuyên luận De Sacramentis christianae fidei [Về các bí tích của đức tin Kitô giáo], Hugh thành St. Victor tìm hiểu ý nghĩa của kiểu nói Sacramentum fidei. Ý nghĩa chính của thuật ngữ này đề cập đến phép rửa và các bí tích khác của đức tin. Hơn nữa, cùng với ý nghĩa được chấp nhận phổ biến hơn này, Hugh tìm thấy một ý nghĩa khác: Sacramentum fidei có thể có nghĩa—coi cách sở hữu cách như là đồng vị ngữ [epexegetical] —chính đức tin bao lâu cũng là một bí tích, nghĩa là bao lâu có cấu trúc bí tích: (1) nó báo trước và dự ứng, như một biểu tượng thực sự, cuộc gặp gỡ trọn vẹn và dứt khoát với Thiên Chúa.

Cái nhìn sâu sắc của Hugh rất quan trọng trong việc vượt qua quan điểm duy chủ quan về đức tin, được hiểu như xác tín độc lập của một cá nhân bị cô lập. Hãy nhớ rằng đức tin là đáp trả của người ta trước cuộc gặp gỡ với Lời Thiên Chúa, Lời vươn tới chúng ta trong hoàn cảnh cụ thể của chúng ta trong thân xác và trong thời gian, và được biểu lộ trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. (2) Vì vậy, theo phát biểu của Hugh, chúng ta được nhắc nhở tất cả điều này chính nhờ các bí tích. Thật vậy, giống như các bí tích luôn bắt nguồn từ xác thịt để thông truyền cho chúng ta sự sống phát sinh từ Thân Mình Chúa Kitô thế nào, thì đức tin– vì nó bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời nhập thể – cũng sẽ có mối liên kết chặt chẽ với tri nhận khả giác định vị con người trong thế giới như vậy; giống như các bí tích giúp chúng ta đặt mình vào lịch sử, qua ký ức về Chúa Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh cũng như qua việc chờ đợi sự trở lại của Người, thì đức tin cũng là ánh sáng xuyên qua các thời đại, mặc khải nguồn gốc của chúng ta nơi Chúa Cha và sự thôi thúc dứt khoát của chúng ta hướng tới Người như thế; và cũng như các bí tích là những biến cố của Giáo hội, xây dựng Giáo hội và được Giáo hội cử hành, thì đức tin cũng mang lại cho chúng ta ánh sáng từ bên trong cộng đồng tín hữu như thế. Thông điệp Lumen fidei của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã xác nhận mối liên kết kép này: “Mặc dù các bí tích thực sự là bí tích của đức tin, nhưng cũng có thể nói rằng chính đức tin có một cấu trúc bí tích” (LF, 40).

Như thế, vấn đề mối liên hệ giữa đức tin và bí tích trở nên quan trọng, không những đối với thần học bí tích, mà còn đối với thần học đức tin. Trong bài viết này, tôi không muốn thảo luận về mối quan hệ này một cách chung chung. Thay vào đó, tôi sẽ tập trung vào những hậu quả của nó để làm sáng tỏ một trường hợp cụ thể và tế nhị: đâu là vai trò của đức tin trong việc cử hành hôn nhân? (3)

Những người cố gắng nhấn mạnh đến sự cần thiết của đức tin đối với sự thành sự của hôn nhân Kitô giáo thường nhấn mạnh rằng mọi bí tích đều là bí tích của đức tin, và hôn nhân không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, khi nói điều này, họ không nói về mặt kia của mối quan hệ mà chúng ta vừa đề cập: đức tin cũng mang tính bí tích; nó cũng phải được hiểu theo luận lý của các bí tích. Và cũng như hôn nhân là một trong các bí tích, chúng ta có thể diễn dịch ra rằng đức tin cũng sẽ có những nét chung với cơ cấu tình yêu vợ chồng. Sẽ là phiến diện khi nhấn mạnh đến sự cần thiết của đức tin đối với hôn nhân mà không hỏi xem hôn nhân giúp chúng ta hiểu đức tin là gì.

Đặc biệt tôi muốn cho thấy hai nét đặc biệt của hôn nhân soi sáng hành vi đức tin một cách đáng chú ý như thế nào: mối quan hệ giữa hôn nhân và việc tạo dựng, và chiều kích giáo hội của hôn nhân. Đức tin nhất thiết phải bắt nguồn từ kinh nghiệm nguyên ủy của con người được tạo dựng; đức tin cũng nhất thiết phải có mối liên hệ chặt chẽ với sự hiệp thông của Giáo hội. Do đó, trong những khía cạnh tương ứng và liên quan mật thiết này của đức tin, tôi sẽ cố gắng tìm ra một cách hữu hiệu để làm sáng tỏ vấn đề mối liên hệ giữa đức tin và hôn nhân.

Cách tiếp cận này sẽ cho phép chúng ta hướng sự chú ý của mình không những đến những trường hợp khó khăn của những người đã lãnh phép rửa với đời sống đức tin kém đang có ý định kết hôn—thực ra, những trường hợp này đang trở nên ít phổ biến hơn ở nhiều nơi vì ngày càng có ít áp lực xã hội buộc phải có một phép rửa thuần túy hình thức hoặc kết hôn trong Nhà thờ. Ngược lại, mối quan tâm có thể chủ yếu có tính tích cực: nhấn mạnh tới mối quan hệ giữa đức tin và hôn nhân trở nên thiết yếu cho việc tân phúc âm hóa. Gia đình quả có nhiều đặc điểm thuộc phạm vi đức tin (x. Lumen fidei, 52).

Do đó, con đường cần được tiếp nhận không những nhằm củng cố đức tin để có thể làm phong phú thêm sự ưng thuận hôn nhân, mà còn là con đường bổ sung khác nhằm củng cố kinh nghiệm gia đình để đức tin có thể trưởng thành. Bằng cách này, giải pháp cho những trường hợp khó khăn có thể là giải pháp bắt đầu từ trung tâm của sứ điệp Kitô giáo, chứ không phải từ việc “thế tục hóa” tình yêu, một sự thích nghi vào và với não trạng ly hôn ngày nay.

Sau khi xem xét ngắn gọn những nền tảng Kinh Thánh về tính chất bí tích của hôn nhân (1), tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ đặc biệt của nó với công trình sáng tạo (2 và 3) và với Giáo hội (4). Từ đó có thể xác định vai trò của đức tin trong hành vi ưng thuận hôn nhân (5) và rút ra kết luận cho thừa tác mục vụ (6).

1. Nền Tảng Kinh Thánh: Mátthêu 19 Và Êphêsô 5: Hôn nhân bắt nguồn từ kinh nghiệm của thân ác phu thê và giáo hội

Hai đoạn Kinh Thánh là trọng tâm để hiểu tính chất bí tích của hôn nhân: Mt 19:8–9 và Eph 5:21–32. Trong Mt 19:8–9, Chúa kết nối tính mới mẻ của con người và lời rao giảng của Người (được ngụ ý trong công thức: “Môsê đã cho phép các ngươi… [còn Ta] Ta nói với các ngươi”) với việc khôi phục sự thật nguyên thủy đã được ghi khắc trong sáng thế liên quan đến xương thịt duy nhất không thể phân chia giữa vợ và chồng. Do đó, niềm tin vào Chúa Giêsu bao hàm việc tái khám phá sự thật về buổi ban đầu. Chúa Kitô, khi đưa ra lời loan báo cuối cùng và dứt khoát về lòng trung thành của Thiên Chúa, cũng mở đường đến sự khởi đầu đó, nơi các nền tảng của cảm nghiệm tình yêu nhân bản được đặt để. Đặc điểm bí tích của hôn nhân được biểu thị bằng mối tương quan kép này (với nguồn gốc và với sự viên mãn mới của Chúa Giêsu), bởi vì hôn nhân chính là bí tích nhờ đó ngôn ngữ tạo dựng được bao gồm trong phạm vi cứu chuộc. Sự sống mới do Chúa Giêsu mang lại không thể được sống nếu chúng ta bỏ lại đằng sau mối quan hệ cổ xưa trong thân xác vốn tạo nên những trải nghiệm gia đình.

Trong Eph 5:21–32, Thánh Phaolô kết nối một thân xác của sách Sáng thế với một thân xác của Chúa Kitô và Giáo hội của Người; bằng cách này, ngài đề cập đến một mầu nhiệm vốn có trong mọi cuộc hôn nhân thụ tạo, bao lâu nó hướng về Chúa Giêsu và Giáo hội. Trong bối cảnh này, hôn nhân giữa các Kitô hữu có một vị trí đặc biệt: vì qua phép rửa, họ thuộc về Thân Mình Chúa Kitô (x. Eph 5:30: “vì chúng ta là chi thể của thân mình Người”), nên các Kitô hữu không thể hiệp nhất thành một xương thịt, ngoại trừ theo tiêu chuẩn mới của xương thịt Chúa Kitô và của Giáo hội; bằng cách này, qua tư cách là thành viên của Thân Thể Chúa Kitô, họ được làm cho có khả năng đại diện cho tình yêu của Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người, trong tình yêu của mình, như Thánh Phaolô yêu cầu họ làm.

Vì vậy, để nắm bắt được tính thống nhất của sáng thế và cứu chuộc trong hôn nhân, Eph 5:21-32 chỉ ra bối cảnh giáo hội học. Việc thuộc về thân xác duy nhất của Chúa Giêsu và Giáo Hội là điều làm cho thân xác duy nhất của vợ chồng trở nên mới mẻ, gắn kết nó với cùng một đặc tính bất khả phân ly của tình yêu Chúa Kitô dành cho các chi thể của Người. Bối cảnh giáo hội này cũng hiện diện trong Mt 19:1-12 vì sự cứng lòng không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân mà còn toàn thể Dân tộc; (4) do đó, người ta chỉ có thể cảm nghiệm được ơn cứu chuộc do Chúa Giêsu mang lại trong dân Israel mới, vốn là Giáo Hội. Hôn nhân không bao giờ là một vấn đề riêng tư – thực vậy, bản chất của đời sống giáo hội và công cộng được tìm thấy trong đó – và mọi thứ liên quan đến nó phải có chiều kích cộng đồng.

Do đó, để hiểu được bí tích hôn nhân, cả khía cạnh thụ tạo lẫn khía cạnh giáo hội đều có tầm quan trọng rất lớn. Chúng ta sẽ thấy rằng trong cả hai trường hợp, chúng ta phải giải quyết những yếu tố thiết yếu của mối quan hệ giữa đức tin và bí tích.

2. Hôn Nhân, Giữa Thiên Nhiên Và Mặc Khải

Một trong những học giả đề xuất việc đổi mới vai trò của đức tin trong hôn nhân là nhà giáo luật nổi tiếng Eugenio Corecco. (5) Ông bắt đầu từ công thức ius divinum, sive Naturale, sive positivum [thiên luật, hoặc tự nhiên hoặc thực định], kết hợp hai khía cạnh của định chế hôn nhân thần thiêng, cả trong sáng thế (điều mà lý trí con người có thể tiếp cận được) lẫn trong mặc khải (có thể được nhận biết bằng đức tin). Corecco viết, hai khía cạnh này đã được trình bày rõ ràng trong suốt lịch sử theo cách mà khía cạnh ius positivum, thuộc về sự mặc khải Kinh thánh, đã dần mất đi sức mạnh của nó, trong khi khía cạnh tự nhiên, di sản của triết học Hy Lạp, đã có được tầm quan trọng.

Thật vậy, Corecco đã đúng khi ông nhận xét rằng trong thần học tân kinh viện về hôn nhân, ân sủng được đo lường bằng những đặc tính tự nhiên, vốn được coi là lĩnh vực của đạo đức triết học. (6) Như vậy, sự thống nhất của hai khía cạnh đã được chấp nhận, nhưng trong thực tế, mọi sự dường như được giản lược vào khía cạnh tự nhiên. Cách tiếp cận này không thỏa đáng vì nó không lấy mặc khải làm điểm xuất phát và không xác định đầy đủ điều gì là Kitô giáo cụ thể trong bí tích hôn nhân. Do đó Corecco hỏi liệu há không cần thiết hay sao khi phải bắt đầu rõ ràng hơn từ ius positivum, điều chỉ được biết qua sự mặc khải hay sao. Điều này có liên quan đến việc xác định các điều kiện thành sự của bí tích một cách dứt khoát hơn về mặt đức tin. (7)

Tuy nhiên, để trả lời đề xuất này, cần phải nói rằng vì ius divinum naturale [thiên luật tự nhiên] là ius gắn liền với sáng thế nên nó không những bắt nguồn từ triết học Hy Lạp mà còn có nguồn gốc từ Kinh thánh. Quả thực, Kinh thánh không chỉ quen thuộc với sự mặc khải của Thiên Chúa trong lịch sử, mà còn với sự hiện diện và các phúc lành không ngừng của Người, hiển hiện trong sáng thế. (8) Thiên nhiên, từ góc độ này, không phải là bản chất siêu hình trừu tượng (như Corecco nghĩ), mà đúng hơn là sự thể hiện sự thật rằng mọi thứ đều bắt nguồn từ Đấng Tạo Hóa; và các quy luật tự nhiên được hiểu theo nghĩa trung thành của Đấng Tạo Hóa đối với công việc của Ngài. Đây là lý do tại sao hôn nhân tự nhiên tự nó hàm chứa sự quy chiếu về Thiên Chúa, về “những gì Thiên Chúa đã kết hợp” và không thể giản lược thành một khế ước chỉ xuất phát từ ý muốn của người nam và người nữ. (9) Trong tình yêu hôn nhân tự nhiên, vợ chồng mở lòng đón nhận một mầu nhiệm đi trước họ, ôm lấy họ và nâng họ vượt lên trên chính họ.

Trong mức độ từ nguồn gốc vốn hướng về Thiên Chúa, mầu nhiệm này ngay từ đầu đã hướng tới việc viên mãn biểu lộ Chúa Cha trong Chúa Kitô; mầu nhiệm này đã được phục hồi và mặc khải trong tính viên mãn của nó bởi mặc khải Kitô giáo. Theo cách tiếp cận này, thiên nhiên luôn được xem xét trong tính cụ thể lịch sử của nó, trong sự kiện này là nó phát xuất từ Thiên Chúa (“tự nhiên”, từ động từ Latin nascor, được sinh ra) và hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn với Người. Như vậy, Chúa Giêsu đã có thể đón nhận tình yêu con người, không chỉ để làm cho nó đạt tới mức viên mãn (như điểm omega của sáng thế), mà còn để chứng tỏ rằng chính Người là Chúa nguyên thủy của nó, là điểm alpha của lịch sử, bằng cách cống hiến cho các Kitô hữu chìa khóa để sống trọn vẹn chiều kích thụ tạo của hôn nhân.

Do đó, hành trình đức tin đúng đắn không chỉ dẫn đến việc đào sâu ius divinum positivum [thiên luật thực định], mà còn dẫn đến việc quay trở lại với bản chất của hôn nhân, diễn giải nó một cách sâu sắc hơn (ius divinum naturale= thiên luật tự nhiên). Thành thử, để gia tăng đức tin, chúng ta cần đi theo cả hai con đường: mặc khải về viên mãn thời gian nơi Chúa Giêsu, và thăm dò kinh nghiệm của mỗi người về nguồn gốc mà Chúa Giêsu đã phục hồi. Thật vậy, việc nhấn mạnh vào đức tin theo cách loại bỏ thiên nhiên về cơ bản cũng có nghĩa là đánh mất đức tin và sự thật cụ thể của nó, theo các hình thức sống Kitô giáo của ngộ đạo.

Bằng chứng của việc liên kết này có thể được thấy trong mối tương quan giữa cuộc khủng hoảng đức tin và cuộc khủng hoảng gia đình trong các xã hội phương Tây, vốn là một con đường hai chiều: tục hóa dẫn đến việc đánh mất các giá trị gia đình, nhưng cũng ngược lại.(10) Do đó, trước tình trạng tục hóa này, cần phải lưu ý không những vấn đề đức tin mà còn cả sự thật tự nhiên của con người về hôn nhân. Thế tục hóa không tương đương với việc tự nhiên hóa hôn nhân. Ngược lại, quá trình tục hóa diễn ra bằng cách phủ nhận bản chất của hôn nhân, khi hôn nhân bị giản lược thành một hợp đồng do xã hội thiết lập, nói cách khác, thành hôn nhân dân sự như người ta đã hiểu từ Cách mạng Pháp.

Tóm lại, tôi đồng ý với Corecco về sự cần thiết phải lấy lời vcông bố của Chúa Giêsu làm điểm khởi hành. Tuy nhiên, chính lời công bố này, khi đề cập đến hôn nhân, cho chúng ta biết về bản chất nguyên thủy của hôn nhân, theo lời tuyên bố về sự trở lại từ đầu trong Mt 19:1ff. và trích dẫn St 2:24 trong Eph 5:32. Do đó, mối quan hệ giữa bản chất và bí tích luôn là một con đường hai chiều và không thể kết hợp cả hai khía cạnh thành một. Chúa Giêsu mặc khải thước đo trọn vẹn của tình yêu phu thê bằng cách quay trở lại thuở ban đầu, giúp các Kitô hữu sống trọn vẹn giao ước tự nhiên của hôn nhân. Giao ước tự nhiên này sẽ luôn là điểm quy chiếu cho thần học và giáo luật, và việc tính đến điểm tham chiếu này không có nghĩa là làm loãng tầm nhìn thần học, mà là đào sâu nó theo lời của Chúa Giêsu và Thánh Tông Đồ Dân Ngoại, do đó tránh chủ nghĩa duy linh và những sai lệch ngộ đạo.

3. TÍNH KHÔNG THỂ TÁCH BIỆT KHẾ ƯỚC VÀ BÍ TÍCH

Sự thống nhất năng động của hai khía cạnh này giúp chúng ta xem xét vấn đề tính bất khả tách biệt giữa hợp đồng và bí tích đối với các Kitô hữu đã được rửa tội, một điều rất quan trọng đối với vấn đề mối quan hệ giữa hôn nhân và đức tin. Thật vậy, tính bất khả tách biệt này khiến cho cô dâu và chú rể không thể có cuộc hôn nhân tự nhiên một mình mà không có sự kết hợp của họ như một bí tích. Điều quan trọng là phải giải thích lý do cho sự không thể tách biệt này.

Học thuyết này dựa trên việc thực hành thường xuyên của Giáo hội sơ khai về việc không đòi hỏi một nghi thức đặc biệt nào để bí tích hôn nhân thành sự. Phong trào trung kinh viện [thế kỷ 13, 14] coi bí tích thứ bảy đáng lưu ý, bởi vì trong đó, chính sự kết hợp tự nhiên giữa vợ chồng đã biểu thị và chứa đựng mầu nhiệm Kitô giáo. Câu hỏi đặt ra trước hết trong bối cảnh xung đột giữa Giáo hội và nhà nước hiện đại về thẩm quyền hôn nhân và chủ trương duy luật [regalist] dành cho nhà nước hợp đồng tự nhiên, sau đó được Giáo hội nâng lên địa vị bí tích. (11) Khi lên án chủ trương này, Giáo hội có ý khẳng định rằng sứ mệnh của mình không phải là một điều gì đó ở bên ngoài trật tự xã hội mà đúng hơn, thông qua thẩm quyền của mình đối với hôn nhân, nó có những hiệu quả cụ thể vì ích chung; sự kết nối giữa Sứ mệnh của Giáo hội và xã hội là kết quả cụ thể của mối liên hệ chặt chẽ giữa ân sủng và tự nhiên.

Luận điểm bị Huấn quyền bác bỏ là luận đề cho rằng hai khía cạnh tuyệt đối có thể tách rời theo cách mà chính vợ chồng hoặc nhà nước sẽ xác định. Tuy nhiên, Huấn quyền không lên án luận đề cho rằng chúng có thể được tách rời một cách tình cờ chứ không phải tự bản thân, một điều sẽ được Giáo hội cho phép trong một số trường hợp.(12) Tuy nhiên, có những lý do thần học chính đáng, như tôi sẽ cố gắng trình bày thêm, vì khẳng định rằng tính chất không thể tách biệt của giao ước tự nhiên và bí tích là tuyệt đối, đến nỗi hai người đã được rửa tội không thể bước vào một cuộc hôn nhân thuần túy tự nhiên, không chỉ vì quyết định của Giáo hội, mà còn vì chính bản chất của việc cứu chuộc đã được thực hiện bởi Chúa Giêsu.

Bất cứ ai đã gặp Chúa Kitô đều đã gặp cánh chung [eschaton], Đấng cuối cùng và dứt khoát; họ đã gặp được biến cố không thể bị vượt qua của tình yêu Thiên Chúa trong lịch sử; không có gì lớn hơn điều này có thể đã xảy ra. Hơn nữa, Chúa Giêsu, khi mặc khải sự hoàn tất của lịch sử, cũng mặc khải nguồn gốc của mọi tạo vật: Người là Đấng cuối cùng và dứt khoát vì Người cũng coi mình là nguồn gốc. Điều này có nghĩa là một khi một người đã gặp Chúa Giêsu, một khi người ấy đã được chạm đến và biến đổi bởi Đấng mà trong đó sự khởi đầu và kết thúc của mọi sự được mặc khải, thì không thể quay lại, hành động như thể Chúa Giêsu chưa hề bước vào cuộc đời mình. Chính vì Chúa Kitô mặc khải nền tảng đầu tiên nên ngày nay không thể quay lại thời gian quá khứ trước khi Người đến; không thể sống thực tế tự nhiên như nó đã được sống trước cuộc gặp gỡ với Người.

Nói rằng (ít nhất trong một số trường hợp) khế ước và bí tích có thể tách biệt nhau có nghĩa là người ta chấp nhận (trong những trường hợp đó) giả thuyết cho rằng đối với một người nào đó đã tìm thấy Chúa Kitô thì có thể trở lại với một thực tại đơn thuần mang tính thụ tạo như thể Chúa Kitô đã không bước vào cuộc đời của Người; điều đó có nghĩa là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô không ảnh hưởng một cách triệt để đến toàn bộ đời sống con người, bởi vì vẫn còn những lĩnh vực chưa được Chúa Giêsu biến đổi một cách triệt để.

Hơn nữa, những lĩnh vực này sẽ không phải là những lĩnh vực thứ yếu của đời sống con người, mà chính xác là những chiều kích quan trọng của bản sắc cá nhân mỗi người. Quả thực, hôn nhân không chỉ là bất cứ thực tại được tạo dựng nào, có thể nói là một thực tại ngẫu nhiên đối với căn tính và ơn gọi của một người và có thể nằm ngoài ơn cứu rỗi của con người; trái lại, đây là trung tâm của thực tại thụ tạo, nơi mà căn tính của con người được xác định trong tính cội rễ vật chất của họ trong thế giới, trong cuộc gặp gỡ với người khác, và trong sự cởi mở của họ đối với sự siêu việt của Thiên Chúa.

Hơn nữa, những lĩnh vực mà hôn nhân ảnh hưởng là những lĩnh vực được Chúa Kitô đảm nhận để chia sẻ cuộc sống của chúng ta và mang lại cho chúng ta ơn cứu rỗi trọn vẹn của Thiên Chúa. Há Chúa Giêsu không thể biến đổi sự hiện diện thân xác của chúng ta trong thế giới, sự cởi mở của nó đối với người khác và đối với Thiên Chúa, khi chính sự hiện diện thân xác này được Người đảm nhận để thông truyền sự sống của Thiên Chúa cho chúng ta hay sao?

Sau khi nêu luận đề không thể tách biệt, điều cần là phải trả lời một phản bác. Điều gì sẽ xảy ra nếu hai Kitô hữu đã được rửa tội từ chối Chúa Kitô, đến mức họ không muốn kết hôn theo quan điểm của Chúa Kitô? Khi đó họ có mất đi một trong những quyền tự nhiên căn bản của mình, quyền được kết hôn không? Phải nói rằng, trong trường hợp này, không có gì đáng ngạc nhiên khi quyền kết hôn tự nhiên bị mất đi: Ai đã tìm thấy Chúa Giêsu Kitô thì có được tất cả: bao gồm bản tính, nguồn gốc, quá khứ của mình; nhưng một khi ai đó đã gặp Chúa Kitô, nếu từ bỏ đức tin, thì người đó cũng mất đi khả năng tiếp cận nguồn gốc như đã trải qua trước khi tìm thấy Chúa Kitô.

Nếu những người đã được rửa tội tiếp cận hôn nhân như một thực tại tự nhiên, minh nhiên bác bỏ mối liên hệ của nó với Chúa Kitô, thì cách hiểu của họ về đám cưới của họ vẫn khác với cách hiểu của những người không tin. Thật vậy, sống theo bản nhiên của mình với khả thể cởi mở với Chúa Kitô trước khi tìm thấy Người là một điều; mà tiếp cận bản nhiên để đối lập với Chúa Kitô lại là một điều hoàn toàn khác hẳn. Việc trực tiếp khước từ Chúa Kitô sẽ khiến cho các bên kết ước không thể trải nghiệm hôn nhân trong chiều kích tự nhiên của nó, chính vì nó sẽ phủ nhận một yếu tố nội tại của hôn nhân tự nhiên: sự cởi mở của nó đối với tính viên mãn dứt khoát của nó trong Chúa Giêsu, dù có lẽ là vô thức.

Tóm lại, đối với những người đã được rửa tội, luận đề không thể tuyệt đối tách biệt khế ước và bí tích phải được tái khẳng định một cách chắc chắn. Điều này phát xuất từ sự thống nhất nội tại giữa bản nhiên và ân sủng vốn thuộc sự viên mãn của thời gian được Chúa Giêsu mang lại, bởi vì Người đã phục hồi một cách triệt để nguồn gốc và biến đổi đời sống Kitô hữu trong những tầng sâu nhất của nó. Kết luận thần học này được xác nhận bởi thực hành hàng thế kỷ của Giáo hội, vốn đã chấp nhận đặc tính bí tích của hôn nhân thụ tạo giữa những người đã được rửa tội mà không đòi hỏi một nghi thức đặc biệt nào để thành sự, cũng như bởi giáo lý về tính không thể đảo ngược của phép rửa, bao lâu nó ảnh hưởng đến căn tính sâu sắc nhất của con người.

4. TÍNH GỐC RỄ GIÁO HỘI CỦA HÔN NHÂN

Vậy chúng ta tự hỏi làm thế nào việc bén rễ sâu trong Chúa Kitô, thuộc về Thân Mình của Người, lại làm cho hôn nhân bí tích thành khả hữu. Theo Eph 5:21-33, tính chất bí tích của hôn nhân Kitô giáo gắn liền với chiều kích giáo hội của nó. Thân xác duy nhất của vợ chồng trở thành bí tích vì họ thuộc về Thân Thể Chúa Kitô, thuộc xác thịt Người (x. Eph 5:30). Hôn nhân của những người đã được rửa tội, hành vi biến mình thành một xương một thịt, được biến đổi bởi sự kiện họ là chi thể của Chúa Kitô. Được cấu hình theo Thân Mình Chúa Kitô trong xác thịt của họ bởi phép rửa, họ chỉ có thể được hiệp nhất trong một thân xác nếu họ hiệp nhất theo tiêu chuẩn của Chúa Kitô. Đây là cách họ có thể có được một tình yêu mới, tình yêu kết hợp Chúa Kitô và Giáo hội; đây là cách họ có thể tuân theo lời khuyên của Thánh Phaolô là hãy yêu thương nhau theo tiêu chuẩn của Chúa Giêsu và Hiền thê của Người.

Hơn nữa, qua mối liên hệ đặc biệt này với Chúa Kitô và Giáo hội, vợ chồng được kết hợp một cách mới (bây giờ như một xương một thịt) vào trong thân xác duy nhất của Giáo hội, và nhờ đó giúp xây dựng nó. Vì lý do này, ân sủng hôn nhân có thể được mô tả vào thời Trung cổ (dựa trên giáo huấn của Thánh Augustinô) như “trở thành chi thể của Chúa Kitô.” (13) Nếu Giáo hội được cấu trúc như một xác thịt, nếu là một xác thịt (Cô dâu của Chúa Kitô) chứa đựng định nghĩa căn bản của mình, thì hôn nhân sở hữu một hồng ân độc đáo để xây dựng Giáo hội.

Như vậy, hôn nhân là một bí tích vì người được rửa tội thuộc về Thân Mình Chúa Kitô và Giáo Hội, và khi kết hợp với nhau, họ trở nên một xương một thịt theo cách thức của Chúa Kitô và Giáo Hội, nhờ đó xây dựng, một cách đặc biệt, sự hiệp thông giữa Giáo Hội, một xương thịt với Chúa Kitô. (14)

Sự kiện hôn nhân bắt nguồn từ giáo hội học đã làm sáng tỏ một vấn đề thực hành quan trọng trong cuộc tranh luận thời Trung Cổ về sự hoàn hợp của hôn nhân. Vì thân xác duy nhất của Giáo Hội là sự hiệp thông trong xác thịt (vì sự kết hợp của Ngôi Lời Nhập Thể với nhân tính là giả định hồng ân của Người trên Thập Giá cho Giáo Hội), nên tính bất khả phân ly tuyệt đối chỉ xảy ra khi vợ chồng được kết hợp với nhau bằng xương bằng thịt. Từ lúc ưng thuận hôn nhân, đã có một bí tích theo đúng nghĩa (hôn nhân được chứng nhận), nhưng không phải là bí tích trọn vẹn, vì vợ chồng chưa hoàn toàn thuộc về nhau theo cách nhập thể mà Chúa Kitô và Giáo hội thuộc về nhau.

Tôi nghĩ rằng những gốc rễ giáo hội học này của hôn nhân cũng có thể làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hôn nhân và đức tin, trong chừng mực chúng ta được đức tin hoàn toàn tháp nhập vào Giáo hội. Chủ đề này đã được thần học và giáo luật xem xét sâu sắc theo hai cách khác nhau:

a) Truyền thống thần học thời trung cổ và thực hành giáo luật đã xác định đặc tính rửa tội là điều tối thiểu cần có để xác định tư cách thành viên trong Giáo hội và khả năng bước vào hôn nhân bí tích. Về vấn đề này, Thánh Tôma Aquinô thảo luận về trường hợp của những người lạc giáo, mặc dù họ không có đức tin đúng đắn, nhưng vẫn sở hữu bí tích đức tin (ấn tích rửa tội): điều này đủ để hôn nhân của họ thành sự. (15)

b) Với thời gian, một sự làm sáng tỏ khác, được luật học giáo luật thừa nhận, đã được thêm vào sự cần thiết của ấn tích rửa tội.(16) Điều này phát triển theo ý định cần thiết của vợ chồng để lãnh nhận bí tích. Nếu cô dâu và chú rể chống lại intentio faciendi quod facit Ecclesia [ý định làm những gì Giáo hội làm], thì cuộc hôn nhân của họ không thể được coi là thành sự. Lý luận tương tự như lập luận về ý định của thừa tác viên trong các bí tích khác. Vấn đề ý định được phân biệt với vấn đề đức tin: một linh mục cử hành Bí tích Thánh Thể một cách thành sự ngay cả khi ngài không có đức tin: chỉ cần ngài có ý định làm những gì Giáo hội làm là đủ. Theo sự so sánh này, một cuộc hôn nhân được coi là vô hiệu nếu có sự cố tình loại trừ, bằng một hành vi ý chí, ý định thực hiện trong hôn nhân hành vi mà Giáo hội dự định thực hiện.

Có cần thiết phải đòi hỏi gì hơn ở cô dâu chú rể không? Mặc dù có giá trị, lập luận cuối cùng liên quan đến ý định cần được xem xét sâu hơn trong trường hợp hôn nhân. Vợ chồng là thừa tác viên nhưng các hành vi nhân bản của họ cũng là chất thể của bí tích; do đó, việc đích thân chấp nhận tối thiểu ý nghĩa bí tích của hành vi mà họ đang thực hiện (và do đó phải có đức tin tối thiểu) dường như là cần thiết, bên cạnh ý định thực hiện những gì Giáo hội có ý làm.

Khó khăn nằm ở việc xác định mức đức tin tối thiểu đó mà không rơi vào một hình thức duy chủ quan vốn có thể đặt nghi vấn về tính thành sự của nhiều cuộc hôn nhân và có nguy cơ kỳ thị với nhiều Kitô hữu bị phán xét một cách tùy tiện là không được chuẩn bị kỹ lưỡng, như Familiaris consortio, 68 đã nhấn mạnh.

Tôi nghĩ rằng các nguồn gốc giáo hội học của hôn nhân cho phép chúng ta đặt câu hỏi một cách thuyết phục hơn. Đề xuất là nhằm đánh giá đức tin tối thiểu như ý định thuộc về đức tin của Giáo hội, được bao gồm trong Giáo hội. Điều cần thiết nơi các cặp vợ chồng là họ có ý định kết hôn với tư cách là Kitô hữu, như những người thuộc cộng đồng giáo hội, ý thức rằng hôn nhân của họ không phải là vấn đề riêng tư. Giải pháp cũng sẽ theo cùng đường hướng như được vạch ra trong phép rửa trẻ sơ sinh: điều này khả hữu, mặc dù trẻ sơ sinh không thể thực hiện một hành vi đức tin cá nhân, qua sự tham gia của người được rửa tội trong đức tin lớn hơn của Giáo hội. Tuy nhiên, sự so sánh với lễ rửa tội chỉ có giá trị đến một điểm nào đó: vì hôn nhân đòi hỏi sự đồng ý bản thân, nên dường như, ngoài những gì được yêu cầu trong phép rửa trẻ sơ sinh, cần phải có thêm một yêu cầu về sự ưng thuận bản thân để thuộc về đức tin của Giáo Hội. Không có ý định làm những gì Giáo hội làm trong trường hợp này nhất thiết phải được giải thích là: không có ý định kết hôn với tư cách là thành viên của Chúa Kitô và của Giáo hội. Điều này đòi hỏi nhiều hơn là một ý định đơn thuần để làm những gì Giáo hội làm; điều cần thiết là việc tham gia vào đức tin của Giáo hội, sự sẵn sàng hòa nhập vào đức tin của Giáo hội. Bằng cách này, nguy cơ đánh giá các cấp độ đức tin khác nhau sẽ tránh được, bởi vì đức tin được chiêm ngưỡng trong chừng mực nó là một và giống nhau đối với tất cả các chi thể của Thân Thể Chúa Kitô. Việc chấp nhận hình thức hôn nhân theo giáo luật, nếu nó không giả đò, sẽ là bằng chứng đầy đủ trong trường hợp này về mức tối thiểu cần thiết để sự ưng thuận có hiệu lực, bởi vì điều được mong đợi không phải là mức độ cao của đức tin bản thân, mà là sự thừa nhận rằng một người ta đang bước vào chủ thể lớn của đức tin là Giáo hội. (17) Do đó, cách diễn đạt “đức tin tối thiểu” không bao hàm những mức độ đức tin khác nhau, mà đúng hơn là có ý chỉ hạt nhân trung tâm của đức tin, đến một chiều kích thiết yếu của đức tin, đó là sự hòa nhập của một người vào đức tin Giáo hội.

Tôi nghĩ luận đề này có thể giúp chúng ta đánh giá giả thuyết do Giáo sư Winfried Aymans đề xuất liên quan đến hôn nhân của những người không Công Giáo đã được rửa tội. Theo Aymans, Vatican II tuyên bố rằng các Kitô hữu không Công Giáo được sáp nhập vào Giáo hội không phải bằng sự kết hợp trực tiếp với Giáo Hội Công Giáo, như kỳ vọng của Bộ luật năm 1917, mà thông qua các giáo hội hoặc cộng đồng giáo hội của họ. (18) Cách tiếp cận mới này, Aymans nói, mời gọi chúng ta có cái nhìn khác về hôn nhân của những người đã được rửa tội thuộc các cộng đồng giáo hội, trong đó niềm tin vào tính bí tích của hôn nhân đã bị đánh mất. Vì trong những trường hợp này, chúng ta thấy một cách thức thuộc về Giáo Hội tuy thực sự nhưng chưa trọn vẹn vì thiếu đức tin trọn vẹn, nên chúng ta có nên nói về tính bất khả phân ly giữa khế ước và bí tích hay không? Aymans đề xuất khả thể tách biệt bất ngờ [per accidens] hợp đồng và bí tích; tính bất khả tách biệt sẽ chỉ tuyệt đối đối với người Công Giáo, tức là đối với những người hoàn toàn thuộc về Giáo hội.

Có thể nói gì về giả thuyết này? Tôi nghĩ giá trị chính của nó là nó nắm bắt được bản chất giáo hội của hôn nhân và tranh luận dựa trên nó. Việc xem xét sâu hơn vấn đề đại kết tại Vatican II kết luận rằng có thể thuộc về Thân Mình Chúa Kitô ở nhiều mức độ khác nhau; để được hưởng plena communio [hiệp thông trọn vẹn] trong Thân Mình Chúa Kitô, phép rửa thôi chưa đủ, nhưng cần có những yếu tố khác: đức tin trọn vẹn của Giáo Hội và sự gia nhập vào thân thể phẩm trật, như Aymans lưu ý.

Tuy nhiên, trong chừng mực những người Thệ phản được tháp nhập vào Chúa Kitô bằng bí tích rửa tội, không thể nghi ngờ gì về tính chất bí tích của cuộc hôn nhân của họ: họ thuộc về Thân Thể Chúa Kitô và do đó được kết hợp theo tiêu chuẩn của Chúa Kitô. Đối với họ cũng vậy, đúng là, vì họ đã gặp Chúa Kitô và tuyên xưng đức tin vào ơn cứu chuộc của Người, họ không thể quay trở lại tình trạng trước đó, đến sự kết hợp trong các giới hạn thụ tạo như thể Chúa Kitô không hiện hữu: do đó, tính bất khả tách biệt của khế ước và bí tích là có hiệu lực trong trường hợp của người Thệ phản.

Tuy nhiên, chúng ta có thể xem xét một giả thuyết khác bắt đầu từ nhận thức mới về mối quan hệ giữa hôn nhân và Giáo hội cũng như từ những phát triển mới nhất trong lĩnh vực giáo hội học. Vì những người đã được rửa tội không Công Giáo không hoàn toàn thuộc về Thân Mình Chúa Kitô, liệu chúng ta có thể nói về một cuộc hôn nhân bí tích chưa đạt được sự viên mãn của nó không? Vì họ không hoàn toàn được kết hợp với thân xác duy nhất của Chúa Kitô và Giáo hội, nên sự kết hợp một xương thịt của họ có thể không hoàn toàn tham gia vào tính bất khả phân ly của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Như vậy, sẽ có những mức độ khác nhau về tính cách bí tích của hôn nhân, không tùy theo thái độ chủ quan của cô dâu và chú rể, nhưng tùy theo những mức độ khác nhau mà họ thuộc về Nhiệm Thể Chúa Kitô – những mức độ có thể được xác định một cách khách quan (tư cách thành viên đầy đủ đối với người Công Giáo, tư cách thành viên không đầy đủ trong các giáo hội và cộng đồng giáo hội khác).

Điểm quyết định về những người đã được rửa tội này, như thế, không phải là họ thiếu niềm tin vào đặc tính bí tích của hôn nhân, mà là họ không được tháp nhập trọn vẹn vào Thân Mình Chúa Kitô. Đối với tôi, điều mấu chốt là xác định cô dâu và chú rể kết hôn với tư cách là thành viên của Thân Mình Chúa Kitô, dựa trên sự kiện họ hoàn toàn thuộc về Giáo Hội.

Sự phân biệt giữa đặc tính bí tích trọn vẹn và bí tích không trọn vẹn này có thể được hiểu như là một sự phát triển về giáo lý tương tự như sự phát triển trong cuộc tranh luận thời trung cổ về sự hoàn hợp của hôn nhân, trong đó hai mức độ bất khả hủy tiêu được nhận diện dựa trên ý nghĩa thần học của hôn nhân trong tương quan với tình yêu nhập thể của Chúa Giêsu và Giáo Hội. Bằng cách này, tính chất bất khả tách biệt của khế ước và bí tích sẽ không bị nghi ngờ; nhưng có thể nhận ra các mức độ mang tính bí tích tùy thuộc vào tiêu chuẩn (một lần nữa, có thể được xác định một cách khách quan) tư cách thành viên đầy đủ trong Giáo Hội Công Giáo.

Tính chất bí tích không trọn vẹn của các cuộc hôn nhân Thệ phản có thể đặt ra câu hỏi liệu những cuộc hôn nhân này có tuyệt đối bất khả hủy tiêu hay không. Vì thiếu sự hiệp nhất với Giáo hội, người ta có thể xem xét khả năng Đức Giáo Hoàng Rôma hủy bỏ mối ràng buộc bí tích để ủng hộ một đức tin trọn vẹn. Đức Giáo Hoàng có thể hủy tiêu một cuộc hôn nhân đã được thành sự nhưng chưa hoàn hợp mặc dù nó mang tính bí tích, vì nó không phản ảnh đầy đủ sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Và điều tương tự cũng có thể nói về hôn nhân không bí tích. Mặt khác, Giám mục Rôma không thể hủy tiêu một cuộc hôn nhân đã thành sự và hoàn hợp bởi vì nó chứa đựng đầy đủ sự hiệp nhất nhờ đó Giáo hội sống: việc hủy tiêu những cuộc hôn nhân này bị loại trừ, bởi vì nó sẽ là một cuộc tấn công chống lại chính việc hiện hữu của Giáo hội, như thể Giáo Hội có ý định tự hủy hoại mình. Đức Gioan Phaolô II đã làm sáng tỏ rằng đây là một học thuyết phải được giữ vững một cách dứt khoát. (19) Tuy nhiên, khả thể mà tôi mời độc giả xem xét không liên quan đến tuyên bố rõ ràng này của Huấn quyền, vốn không xem xét trường hợp cụ thể của những người không được tháp nhập hoàn toàn vào Thân Thể Chúa Kitô vì họ thuộc về các cộng đồng giáo hội khác. Thật vậy, lý do không thể hủy bỏ mối ràng buộc này chính là tính biểu tượng trọn vẹn của xương thịt duy nhất của vợ chồng đã được rửa tội liên quan đến sự hiệp nhất của Giáo hội.

5. Vai Trò Của Đức Tin Trong Sự Ưng Thuận Hôn Nhân

Những gì đã nói ở trên cho phép chúng ta xây dựng một tổng hợp liên quan đến các yếu tố của sự ưng thuận hôn nhân và mối liên hệ của nó với đức tin, kết hợp những điểm chính mà chúng ta đã đưa ra. Điều quan trọng là phải xem xét ba khía cạnh: 5.1) chân lý tự nhiên của hôn nhân như dấu hiệu của đức tin chớm nở và cuộc hành trình hướng tới đức tin; 5.2) đặc tính của phép rửa và ý nghĩa của nó trong đời sống Kitô hữu; 5.3) sự tham gia đức tin của cô dâu và chú rể vào đức tin của Giáo hội.

5.1. Bất cứ ai chấp nhận chân lý thụ tạo của hôn nhân đều cởi mở đón nhận mầu nhiệm Thiên Chúa trong đời sống mình và từ đó trở đi trên hành trình hướng tới đức tin.

Do tính luân lưu giữa đức tin và hôn nhân, và do sự kiện yếu tố cấu thành của Tin Mừng Chúa Giêsu là việc phục hồi chân lý tạo dựng, nên bất cứ ai chấp nhận các đặc tính tự nhiên của hôn nhân thì từ đó trở đi đều ở trong chân trời đức tin và nay sử dụng ngôn ngữ đức tin. Mối liên hệ này hiện diện trong các các cuộc thảo luận thời Trung cổ về tính chất bí tích của hôn nhân giữa những người không tin. Chẳng hạn, Hugh thành St. Victor tự hỏi liệu sự kết hợp này có thể được gọi là bí tích hay không: ngài trả lời, “Tôi xi nói rằng khi một người không có đức tin lấy vợ để sinh con, thì vẫn chung thủy với giường hôn nhân, yêu thương vợ mình và chăm sóc nàng, không đi với người khác khi vợ hoặc chồng còn sống..., mặc dù trong những vấn đề khác anh ta có thể không chung thủy, bởi vì anh ta không tin, tuy nhiên, do đó anh ta không hành động chống lại đức tin cũng như chống lại định chế thần linh.” (20) Trích dẫn một thí dụ hiện đại, chúng ta có thể nhớ lại Wolfhart Pannenberg, người về vấn đề này đã tránh xa quan điểm của Luther bằng cách khẳng định rằng việc chấp nhận tính bất khả hủy tiêu của hôn nhân hiện nay, trong xã hội thế tục hóa của chúng ta, là một chứng từ của đức tin Kitô giáo. (21)

Tính luân lưu này giúp chúng ta hiểu rõ hơn khuynh hướng tự nhiên của hôn nhân bất khả hủy tiêu, vốn được truyền thống thần học khẳng định. Sự thật này cần được đề cao; yếu tố được đề cập không những có nguồn gốc triết học mà còn bắt nguồn từ việc loan báo Tin Mừng. Chính bởi vì khuynh hướng này hiện hữu nên Tin Mừng có thể tự tuyên bố là sự viên mãn của kinh nghiệm con người, như một lời loan báo tìm được sự xác minh trong tâm hồn mỗi người.

Bằng chứng cổ điển khẳng định khuynh hướng này dựa trên việc xác định các mục đích của hôn nhân mà chỉ có hôn nhân bất khả hủy tiêu mới đối xử công bằng. (22) Từ quan điểm đương thời, cách tiếp cận này có thể được đề xuất một lần nữa bắt đầu bằng việc nghiên cứu tình yêu vợ chồng và khả năng hứa hẹn bền lâu. (23) Theo nghĩa này, khuynh hướng tự nhiên được kết nối với mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng mặc khải mình trong tình yêu, và với sự đáp trả tự do của con người diễn ra trong lịch sử. Như tôi đã lưu ý ở trên, đây là lý do tại sao nó mãi luôn cởi mở đón nhận một sự thành toàn khả hữu trong tình yêu dứt khoát của Chúa Kitô và Giáo hội.

Điều này không phủ nhận sự kiện trong một số trường hợp (vô sinh, bị vợ/chồng bỏ rơi), khuynh hướng tự nhiên này có thể khó biểu hiện chỉ từ quan điểm phân tích tình yêu về phương diện thụ tạo, cũng như xem xét cả vulnus [vết thương] của tư dục “sự cứng lòng” được Chúa Giêsu nói đến); đây là lý do tại sao hầu hết mọi nền văn hóa đều đồng ý với những ngoại lệ đối với việc cấm ly hôn.

Thật vậy, tính bất khả hủy tiêu tuyệt đối (ngay cả trong những trường hợp ngoại tình và vô sinh) chỉ xuất hiện trong lịch sử Kitô giáo, và việc khám phá đặc biệt về nó chắc chắn có nguồn gốc từ đức tin. Điều này có nghĩa là nếu đức tin không có hiệu lực thì có nhiều khả năng người ta sẽ không nắm bắt được những chân lý tự nhiên của hôn nhân. Đây là tiêu chuẩn cần được xem xét khi tiếp nhận các ứng viên kết hôn và trong quá trình tuyên bố hôn nhân vô hiệu. (24)

Chắc chắn naturalis inclinatio [khuynh hướng tự nhiên] đã bị che khuất ở mức độ lớn hơn trong xã hội chúng ta; trong khi ở hầu hết các nền văn hóa, ly hôn được chấp nhận như một ngoại lệ, điểm mới lạ hiện đại là khẳng định quyền ly hôn, vì hôn nhân được cho là hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của con người (phù hợp với nền văn hóa của các mối quan hệ “thuần khiết” và “linh hoạt”), một điều chỉ phụ thuộc vào ý chí của chủ thể).

Tuy nhiên, vì sự thật tạo vật về hôn nhân đã được khắc ghi trong kinh nghiệm nguyên thủy sâu sắc nhất của con người, nên trong bản chất của con người, nền văn hóa ngày nay đã không thể làm hư hỏng nó hoàn toàn; nghĩ khác đi sẽ là chuyển sang nền nhân học Thệ Phản, thừa nhận rằng bản nhiên bị hư hỏng - không còn do tội nguyên tổ, như Luther nói, nữa mà là do văn hóa hậu hiện đại. Theo nghĩa này, dường như không thích hợp để sửa đổi praesumptio iuris [giả định luật] để ủng hộ tính thành sự.

Cuối cùng, cần phải lưu ý rằng hôn nhân tự nhiên bao hàm sự cởi mở đối với mầu nhiệm Thiên Chúa, trong chừng mực Người hiện diện trong tình yêu con người. Về khía cạnh này, điều quan trọng là phải xem xét trường hợp cụ thể của hôn nhân dân sự, vốn là kết quả của việc bác bỏ sự cởi mở này, bắt đầu từ Cách mạng Pháp. Nếu về phía cô dâu và chú rể thiếu sự cởi mở này đối với Đấng Tạo Hóa, người ta sẽ phải tự hỏi liệu điều đó có làm mất đi sự ưng thuận tự nhiên của họ hay không. Thật vậy, cả khả năng nói “cho đến khi cái chết chia lìa chúng ta” lẫn việc cởi mở đối với việc sinh sản và giáo dục con cái đều đòi hỏi một sự cởi mở nhất định đối với mầu nhiệm Thiên Chúa để có thể chấp nhận chúng. Vấn đề có thể được phát biểu rõ ràng hơn liên quan đến hôn nhân của những người không Công Giáo đã được rửa tội, những người đôi khi không đòi hỏi nghi thức giáo hội, và được Giáo hội chấp nhận như bí tích. Việc thiếu bất cứ sự công nhận nào đối với Đấng Tạo Hóa có thể là dấu hiệu của việc thiếu chấp nhận những đặc tính tự nhiên của hôn nhân. Tuy nhiên, như chúng ta biết, sự vắng mặt này không chỉ được xác định ở bình diện trí thức mà còn làm suy giảm ý chí.

5.2. Ấn tín phép rửa và sự liên quan của nó với hành vi đức tin

Bí tích Rửa tội là một đòi hỏi không thể thiếu để lãnh nhận bí tích hôn nhân. Cần phải nhớ lại rằng những người đã được rửa tội hiếm khi thực hành tôn giáo của mình hoặc là những người đã xa rời đức tin, tuy nhiên vẫn có ấn tín của phép rửa. Đôi khi ấn tín rửa tội được quan niệm như một sự kiện đơn thuần, một điều gì đó được ban cho một cách tự động, không liên quan gì đến hoạt động cụ thể của người đó. Nếu đức tin đã mất đi, ấn tín của phép rửa sẽ vẫn như một mối ràng buộc hữu thể học trừu tượng, chứng tá cho một sự kiện mà giờ đây đã bị lãng quên. Tuy nhiên, đây là một cái nhìn rất giản lược về ấn tín phép rửa; đúng hơn nó có tác dụng thực sự đối với trải nghiệm của người đã nhận được nó.

Thực vậy, ấn tín phép rửa diễn tả bản chất dứt khoát của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, và đây là lý do tại sao bí tích không thể được lặp lại. Phép rửa, như một sự ra đời mới và dứt khoát, tượng trưng cho điểm khởi đầu mới của đời sống người tín hữu, cũng như sự ra đời là điểm khởi đầu của cuộc đời mỗi con người. Thật vậy, phép rửa mang theo nó một thân xác mới, một hệ thống các mối quan hệ mới, thân xác được Chúa Giêsu khai mở, là nền tảng cho mọi sự mà người tín hữu là và làm: không thể tách tôi ra khỏi thân xác của tôi, khỏi hệ thống các mối quan hệ nguyên thủy đã tạo ra tôi thế nào, thì cũng không thể tách người ta ra khỏi thân thể mới của phép rửa tội như thế. Cũng một cách trong đó, thân xác là khả năng tiếp nhận nguyên thủy vốn thuộc về mọi hành động tự do của chúng ta thế nào, ấn tín rửa tội cũng hiện diện trong mọi hành vi của người được rửa tội như thế, ngay cả khi người ấy không nhận thức được nó hoặc bác bỏ nó.

Ấn tín phép rửa, vốn nội tại trong hành vi đức tin, nhắc nhở chúng ta rằng đức tin cũng có một khía cạnh thể xác. Kiến thức của chúng ta được xác định bởi sự kiện chúng ta thuộc về thế giới nhờ cơ thể, và do đó thuộc về tập hợp các mối quan hệ được sự hiện hữu thể xác của chúng ta làm cho khả hữu thế nào, thì đức tin cũng là cách nhìn chuyên biệt của con người đã bước vào Thân Mình Chúa Giêsu, vào mạng lưới các mối quan hệ của Người như vậy; đó là cách nhìn chuyên biệt của một người đã được xác định trong chiều sâu của mọi “cái nhìn” của mình bởi sự kiện họ thuộc về Chúa Giêsu.

Vì vậy, có thể hiểu rằng ấn tín rửa tội không phải là một dữ kiện đơn giản. Một đứa trẻ được rửa tội không nằm ngoài ảnh hưởng của ấn tín rửa tội, vốn ảnh hưởng đến nó qua sự hiện diện của cha mẹ và nền văn hóa của tổ tiên nó, qua toàn bộ môi trường giáo hội bao quanh nó, và do đó trở thành một phần căn tính của nó. Điều này có nghĩa là sự hiện diện của ấn tín phép rửa lúc này hướng về Chúa Kitô, đưa người đó vào vòng liên hệ do Chúa Giêsu mở ra, và đặt người đó vào bối cảnh hành động của Chúa Giêsu. Ngay cả đối với một tín hữu đã “mất” đức tin và không còn quan tâm đến Chúa Giêsu nữa (hoặc, với những sửa đổi chính đáng, đối với người được rửa tội khi còn là một đứa trẻ chưa bao giờ tự do chấp nhận đức tin), hậu cảnh này vẫn tiếp tục xác định quan niệm của họ về thế giới và hoàn cảnh của họ ở trong đó.

5.3. Hiệp nhất với đức tin của Giáo hội

Hai yếu tố được liệt kê ở trên (sự cởi mở với sự thật tự nhiên của hôn nhân và ấn tín phép rửa) có đủ để làm cho một người đủ tư cách bước vào hôn nhân bí tích không? Như chúng tôi đã nói, dường như cần phải có một điều gì đó hơn thế nữa, vì hôn nhân biểu thị một sự kết hợp sâu sắc hơn với Giáo hội, vượt xa sự kết hợp được thực hiện trong Bí tích Rửa tội và đòi hỏi sự tham gia bản thân của cô dâu và chú rể. Như vậy, liệu có thể đóng khung câu hỏi một cách chuyên biệt hơn về hạt nhân thiết yếu của đức tin cần có cho một cuộc hôn nhân thành sự không?

Câu trả lời có liên quan đến đức tin như là thành viên trọn vẹn của Kitô hữu trong Thân Mình Chúa Kitô. Vì vậy, như đã được lưu ý trước đây, điều quan trọng không phải là thước đo đức tin bản thân của một người (nếu vấn đề được tiếp cận theo cách này, nó sẽ làm nảy sinh chủ nghĩa chủ quan và kỳ thị), nhưng đúng hơn là ý định được bao gồm trong đức tin của Giáo hội. (theo nghĩa trong đó, đức tin này là duy nhất cho tất cả những ai thuộc về Giáo hội). Vì vậy, chỉ cần cô dâu và chú rể sẵn sàng kết hôn với tư cách là Kitô hữu, như các chi thể của Thân Mình Chúa Kitô là đủ.

Đặc tính chung này của đức tin, vốn cho phép chúng ta nhìn qua con mắt của người khác, tránh giản lược đức tin thành một điều gì đó mang tính duy cá nhân. Trường hợp rửa tội cho trẻ sơ sinh, những trẻ tham gia vào đức tin của Giáo hội qua sự trung gian cụ thể của cha mẹ, có thể giúp ích ở đây. Thánh Bernard đã so sánh trường hợp này với người đàn bà Canaan từng xin Chúa Giêsu làm một phép lạ. Nếu bà ấy có thể che chở con gái mình bằng đức tin của mình, há Giáo hội lại không có thể che chở con cái mình bằng tấm áo đức tin của Giáo Hội hay sao? Chắc chắn Giáo Hội có thể: “Đức tin của Giáo Hội thật vĩ đại!” vị thánh trả lời. (25) Đúng là hôn nhân, trong chừng mực chỉ có thể thực hiện được giữa những người trưởng thành, không hoàn toàn tuân theo phép loại suy, vì nó đòi hỏi sự tham gia tự do của cô dâu và chú rể. Tuy nhiên, chỉ cần cô dâu và chú rể mong muốn được tham gia vào hành động đức tin vĩ đại này của Giáo hội là đủ, vì Giáo hội có thể che chở họ bằng áo choàng của mình. Mặc dù Corecco đề nghị đòi sự ưng thuận không những đối với hôn nhân thụ tạo [tự nhiên] mà còn đối với hôn nhân Kitô giáo, nhưng đó không phải là điều đang bị đe dọa ở đây. Đối tượng của sự ưng thuận trong hôn nhân Kitô giáo không gì khác hơn là hôn nhân thụ tạo, một xương một thịt duy nhất do Đấng Tạo Hóa thiết lập. Vấn đề đúng hơn là liệu cô dâu và chú rể có sẵn lòng đồng ý kết hôn tự nhiên với tư cách là Kitô hữu, với tư cách là chi thể của Thân Mình Chúa Kitô hay không. Để có điều này, chỉ cần các người đính hôn chấp nhận sự kiện họ thuộc về Giáo hội - và được Giáo hội đồng hành trong việc cử hành hôn nhân của họ - ngay cả khi đức tin và việc thực hành tôn giáo của họ yếu kém hoặc dường như không hiện hữu. Chúng ta có thể nói rằng ở đây Giáo hội không được coi là đối tượng của đức tin, mà đúng hơn là chủ thể của đức tin mà cô dâu và chú rể đồng ý đón nhận trong cuộc hôn nhân của mình, để họ được che chở bởi tấm áo đức tin của Giáo hội. Đối với tôi, dường như đây là hạt nhân thiết yếu của đức tin cần có để họ có thể đưa ra lời ưng thuận một cách hợp bí tích.

Tóm tắt những gì chúng ta vừa nói, cặp đính hôn có thể được bao gồm trong một đức tin duy nhất của Giáo hội (là một đức tin có tính tương quan, được truyền đạt một cách hiệp nhất qua các chi thể của Giáo hội) theo cách tương tự như đức tin của một đứa trẻ sơ sinh được bao gồm trong đức tin của Giáo hội qua đức tin của cha mẹ em. “Điều gì đó hơn thế nữa” đòi hỏi nơi hôn nhân, so với bí tích rửa tội, vì lễ cưới theo nghi thức là một sự lựa chọn cuộc sống đòi hỏi sự đồng ý tự do, đó là sự tự do chấp nhận sự hiện diện này của Giáo hội trong cuộc hôn nhân của họ. Trong chiều kích này của đức tin – việc chấp nhận thuộc về đức tin của Giáo Hội – không có mức độ khác nhau giữa những người Công Giáo đã được rửa tội, bao lâu tất cả đều thuộc cùng một cách thức vào một đức tin duy nhất của Giáo Hội, mặc dù đức tin bản thân của mỗi người trong số họ phát triển một cách khác nhau. Chỉ có thể có những mức độ khác nhau giữa các Kitô hữu từ các giáo hội hoặc cộng đồng giáo hội khác mà thôi.

6. Kết Luận Và Triển Vọng Mục Vụ

Phân tích của chúng ta nhằm mục đích làm sáng tỏ các vấn đề về mối quan hệ giữa đức tin và bí tích hôn nhân. Những nhận định sau đây có thể được đưa ra:

• Liên quan đến vấn đề đức tin tối thiểu cần thiết để có được tính thành sự cho lời ưng thuận, câu hỏi này liên quan đến đức tin trong chừng mực nó làm cho chúng ta trở thành thành viên của Giáo hội. Sự ưng thuận, chắc chắn, được xác định bởi những đặc tính tự nhiên của hôn nhân, nhưng, để nó có tính bí tích, nó phải được cô dâu và chú rể trao cho nhau như những Kitô hữu, nghĩa là, trong khi chấp nhận sự kiện họ thuộc về thân thể giáo hội. Dưới ánh sáng này, người ta có thể kiểm chứng giả thuyết về những mức độ khác nhau của đặc tính bí tích của hôn nhân tùy thuộc vào những mức độ khác nhau (có thể được xác định một cách khách quan theo luật) của tư cách thành viên trong Thân Mình Chúa Kitô.

• Đối với sự ưng thuận tự nhiên của hôn nhân, điều quan trọng cần lưu ý là điều này phải bao gồm sự cởi mở nào đó đối với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, ít nhất là một cách mặc nhiên, như một mầu nhiệm hiện diện trong tình yêu, nhờ đó tránh được việc giản lược sự ưng thuận thành sản phẩm của ý chí vợ chồng, mà, trong hoàn cảnh văn hóa của chúng ta, thường bị giản lược hơn nữa thành ham muốn xúc cảm. Sự cởi mở đối với mầu nhiệm là một phần không thể thiếu của cả việc có thể nói “cho đến khi cái chết chia lìa chúng ta” với một người duy nhất và lẫn việc chấp nhận sinh sản và giáo dục con cái. Theo nghĩa này, có thể việc thiếu cởi mở với Thiên Chúa có thể ảnh hưởng đến sự ưng thuận, do đó có thể bị hà tì, khiến hôn nhân trở nên vô hiệu.

• Về việc chuẩn bị cho hôn nhân, chúng ta cũng có thể đưa ra hai kết luận sau:

*Nhấn mạnh vào sự thật tự nhiên của hôn nhân là một lời mời gọi bắt đầu cuộc hành trình đức tin; đức tin nào không nắm bắt được vai trò của sáng thế và của bản nhiên sẽ không phải là đức tin đích thực và thậm chí có thể dẫn đến thất bại trong hôn nhân. Mặt khác, việc tuyên xưng đức tin bảo đảm rằng các chân lý tự nhiên được hiểu rõ hơn; nếu đức tin của cô dâu và chú rể kém hoặc không hiện hữu, thì người ta càng phải nhấn mạnh hơn nữa để đảm bảo rằng họ chấp nhận những sự thật tự nhiên của hôn nhân.

*Thực tế là chiều kích giáo hội là nền tảng cho toàn bộ vấn đề này ảnh hưởng đến cách người ta nghĩ về mục vụ gia đình: việc chuẩn bị hôn nhân thôi chưa đủ; điều quan trọng là phải bổ sung thêm các yếu tố khác trong bối cảnh mục vụ gia đình toàn diện: trường học dành cho các bậc cha mẹ có khả năng bắt đầu chuẩn bị từ xa cho hôn nhân với con cái của mình; kết nối mục vụ gia đình với việc khai tâm Kitô giáo, để cả gia đình có thể tham gia vào mục vụ đó; thiết kế mục vụ giới trẻ như một sự chuẩn bị cho ơn gọi tình yêu trong hôn nhân hoặc đời sống trinh khiết thánh hiến; chăm sóc mục vụ liên tục cho các gia đình trẻ theo cách có sự tham gia của các gia đình khác.

Ưu điểm của những hướng dẫn được đề xuất là chúng giúp đưa ra câu trả lời cho những vấn đề đương thời liên quan đến những cuộc hôn nhân thất bại không phải từ quan điểm của xã hội (vốn đòi hỏi sự dễ dãi hơn), mà từ quan điểm đúng đắn của Tin Mừng và sự thật về tình yêu phu thê, nhờ đó đào sâu cả cội rễ giáo hội của hôn nhân (trái ngược với việc tư nhân hóa hôn nhân trong nền văn hóa ngày nay) cũng như sự cởi mở của nó đối với mầu nhiệm Thiên Chúa (trái ngược với việc thế tục hóa hôn nhân và việc giản lược nó vào ý muốn hoặc cảm xúc của cô dâu và chú rể).

Bản tiếng Anh của Michael J. Miller.
JOSÉ GRANADOS, DCJM, là phó chủ tịch Viện Nghiên cứu về Hôn nhân và Gia đình Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II của Đại học Lateran ở Rome.


Communio 41 (Summer 2014). © 2014 by Communio: International Catholic Review
_____________________________________________________________________________________________________________
1. Xem De sacr. christianae fidei [về các bí tích của đức tin Kitô giáo] I, 10, 9: “Sacramentum fidei dupliciter potest intelligi. Sacramentum enim fidei vel ipsa fides intelligitur, quae Sacramentum est, vel Sacramenta fidei intelliguntur quae cum fide percipienda sunt, et ad sanctificationem fidelium praeparata sunt.” [“Bí tích đức tin có thể được hiểu theo hai cách. Vì bí tích đức tin hoặc được hiểu là chính đức tin, tức là một bí tích, hoặc các bí tích đức tin có thể được hiểu là những điều phải được đón nhận bằng đức tin và được chuẩn bị cho việc thánh hóa các tín hữu.”] Về mối tương quan giữa đức tin và bí tích trong Hugh thành St. Victor, xem Renzo Gerardi, “Fede e Sacramento in Ugo di S. Vittore,” [Đức tin và Bí tích nơi Hugh thành St. Victor] trong Rivista di teologia morale [Tạp chí Thần học Luân lý]12 (1980): 231–52. Về kết nối này giữa đức tin và bí tích xem Thánh Augustinô, Thư 98, 9: “Sicut ergo secundum quemdam modum Sacramentum corporis Christi corpus Christi est, Sacramentum sanguinis Christi sanguis Christi est, ita Sacramentum fidei fides est.” [“Do đó, cũng như một cách nào đó, bí tích Mình Thánh Chúa Kitô là Mình Thánh Chúa Kitô, và bí tích Máu Thánh Chúa Kitô là Máu Chúa Kitô, thì bí tích đức tin cũng là đức tin.”]

2. Trong bài tiểu luận này, tôi đề cập đến fides qua, đức tin soi sáng tâm hồn người tín hữu; và tôi chỉ xem xét nó trong hành vi cử hành hôn nhân (hôn nhân in fieri [đang hình thành]).

3. Để có cái nhìn tổng quát về vấn đề, tôi xin phép độc giả tham khảo: José Granados, Una sola carne en un solo Espíritu: teología del matrimonio [Một xương một thịt trong một tinh thần: thần học về hôn nhân] (Madrid: Palabra, 2014), 255–67, có thư mục.

4. Xem Julián Marías, “Matrimonio y divorcio,” [hôn nhân vàly dị] trong Sobre el cristianismo [về Kitô giáo](Madrid: Planeta, 2000), 90–99.

5. Xem Eugenio Corecco, “Il Sacramento del matrimonio: cardine della costituzione della Chiesa,” [Bí tích hôn phối: nền tảng của cơ cấu Giáo Hội] trong Ius et Communio [Luật và Hiệp thông] (Facoltà di teologia di Lugano [Phân khoa thần học Lugarno], 1997), 2:564–92 trang 573.

6. Xem, chẳng hạn, Francisco Solá, “De matrimonio,” [về hôn nhân] trong Patres Societatis Iesu Facultatum Theologicarum in Hispania Professores, Sacrae Theologiae Summa [Các Cha Giáo sư của Dòng Tên thuộc Khoa Thần học ở Tây Ban Nha, Tóm tắt Thần học Thánh], tập. 4 (Madrid: BAC, 1953), 831.

7. Xem Corecco, “Il Sacramento del matrimonio,” 2:586.

8. Về vấn đề này, xem Claus Westermann, Blessing in the Bible and the Life of the Church [Ban phép lành trong Kinh thánh và Đời sống Giáo hội] (Minneapolis: Fortress Press, 1978).

9. Điều này trái ngược với những gì Corecco nghĩ, “Il Sacramento del matrimonio,” 2:582.

10. Về vấn đề này, xem Mary Eberstadt, How the West Really Lost God: A New Theory of Secularization [Phương Tây thực sự đã đánh mất Thiên Chúa như thế nào: Một lý thuyết mới về thế tục hóa] (West Conshohocken: Templeton Press, 2013).

11. Xem Đức Piô VI, Deessemus nobis, DH 2598; Đức Piô IX, Syllabus 1864, đề xuất 66 và 73 (ĐH 2966; ĐH 2973); Leo XIII, Arcanum, DH 3144–3146; Thư gửi các Giám mục Venice, Il divisamento (8 tháng 2 năm 1893), ASS 25 (1892–1893): 459–74; Đức Piô XI, Casti connubii, AAS 22 (1930): 552.

12. Xem Eugenio Corecco, “Il sacerdote, ministro del matrimonio? [Linh mục, thừa tác viên hôn nhân]” La Scuola cattolica 98 (1970): 343–72; 427–76.

13. Xem chuyên luận ẩn danh của Trường phái Laon: Conjugium est secundum Ysidorum [Hôn nhân theo Ysidor], ed. F. Bliemetzrieder, RThAM 3 (1931): 273–91 lúc 275: “Res quippe huius Sacramenti est fieri membrum Dei. Qui enim in legitimo conjugio legitime vivunt, per ipsum conjugium Deo etiam serviunt et eius membra fiunt.” [“Chắc chắn chất thể của bí tích này là trở thành chi thể của Thiên Chúa. Đối với những người sống trong một cuộc hôn nhân hợp pháp do chính cuộc hôn nhân của họ cũng phục vụ Thiên Chúa và trở thành chi thể của Người.”]

14. Về vai trò của Chúa Thánh Thần tác động lên một xác thịt, bổ sung cho những gì chúng ta đang nói về chiều kích giáo hội của hôn nhân, xem Granados, Una sola carne en un solo Espíritu [Một thân xác duy nhất trong một tnhthần duy nhất], 359–82; Marc Ouellet, “The Holy Spirit, Seal of the Conjugal Covenant,” in Divine Likeness: Toward a Trinitarian Anthropology of the Family [“Chúa Thánh Thần, Dấu ấn của Giao ước Vợ chồng”, trong Họa ảnh Thiên Chúa: Hướng tới một nền nhân học ba ngôi về gia đình] (Grand Rapids: Eerdmans, 2006), 79–101.

15. Xem Aquinas, Super Sent., IV, d. 39, q. 1, A. 1, ad 5 (ed. Parma, 1024–1025).

16. Để phân tích luật học, xem Giacomo Bertolini, Intenzione coniugale e Sacramentalità del matrimonio [Ý định vợ chồng và tính bí tích của hôn nhân], 2 tập. (Padua: Cedam, 2008), 1:167–264; tác giả duy trì một luận đề tối giản liên quan đến vai trò của đức tin hay ý định bí tích: “một cách tiếp cận thực tiễn đúng đắn và một chủ nghĩa nhân vị đích thực đưa ra sự xác nhận trước đó về sự hiện diện hay vắng mặt của vấn đề vợ chồng tự nhiên; nếu nó hiện diện, bất cứ cuộc điều tra sâu hơn nào liên quan đến các khuynh hướng trí thức hoặc ý chí đặc biệt liên quan đến đặc tính bí tích dường như sẽ gây hiểu lầm” (2:323).

17. Xem Lumen fidei [ánh sáng đức tin], 47: “Đức tin duy nhất vì được chia sẻ bởi toàn thể Giáo hội, là một thân thể và một Thánh Thần. Trong sự hiệp thông với một chủ thể duy nhất là Giáo hội, chúng ta nhận được một cái nhìn chung. Khi tuyên xưng cùng một đức tin, chúng ta đứng vững trên cùng một tảng đá, chúng ta được biến đổi bởi cùng một Thánh Thần của tình yêu, chúng ta tỏa ra một ánh sáng và chúng ta có một cái nhìn sâu sắc duy nhất về thực tại.”

18. Xem Winfried Aymans, “Die sakramentale Ehe als Gottesbund und Voll-zugsgestalt kirchlicher Existenz: Erwägungen zu einer Reform des kirchenrechtlichen Grundverständnisses von der christlichen Ehe,” [Hôn nhân bí tích như một giao ước thiêng liêng và hình thức hiện hữu của giáo hội: những cân nhắc để cải cách cách hiểu giáo luật cơ bản về hôn nhân Kitô giáo] ThJb 1 (1981): 184–97 và “Die sakramentale Ehe—Gottgestifteter Bund und Vollzugsgestalt kirchlicher Existenz,” [Hôn nhân bí tích—một giao ước thiêng liêng được thiết lập và là hiện thân của sự hiện hữu của giáo hội] REDC 47 (1990): 611–38.

19. Xem Đức Gioan Phaolô II, “Discorso del 22 gennaio 2000,” [Bài phát biểu ngày 22 tháng 1 năm 2000] AAS 92 (2000): 355; xem. CEC 1640; xem. Janusz Kowal, L'indissolubilità del matrimonio rato e consummato: Status quaestionis,” [Tính bất khả phân ly của hôn nhân đã thành sự và hoàn hợp: Tình trạng của vấn đề], Periodica 90 (2001): 305–70.

20. Xem Hugh thành St. Victor, De Sacramentis christianae fidei, II, 11, 13 (ed. Berndt, 456). Một cách tiếp cận tương tự được tìm thấy ở Thánh Bonaventure: xem José Granados, “Bonaventure and Aquinas on Marriage: Between Creation and Redemption,” [Thánh Bonaventura và thánh Tôma Aquinô về Hôn nhân: giữa Sáng Thế và Cứu thế], Anthropotes 28 (2012): 339–59.

21. Xem Wolfhart Pannenberg, Systematic Theology [Thần học hệ thống], tập. 3, bản dịch của Geoffrey W. Bromiley (Grand Rapids: William B. Eerdmans, 1998), 364: “Phong trào Cải cách có khuynh hướng coi hôn nhân một vợ một chồng chỉ đơn giản là một trong những mệnh lệnh do Thiên Chúa tạo ra, không có mối liên hệ cấu thành nào với sự mặc khải của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên, ngày nay, một cuộc hôn nhân bền vững gần như đã trở thành chứng tá của đời sống Kitô giáo trong xã hội thế tục hóa hiện đại của chúng ta, một xã hội xuất phát từ Kitô giáo”.

22. Xem, chẳng hạn, Summa contra Gentiles, Quyển Ba: Sự Quan Phòng, Phần II, bản dịch của Vernon J. Bourke (Notre Dame: Nhà xuất bản Đại học Notre Dame, 1975), ch. 123, trang 147–50.

23. Xem Robert Spaemann, Persons: The Difference between ‘Someone’ and ‘Something’ [Các Ngôi vị: Sự Khác nhau giữa ‘Ai đó’ và ‘điều gì đó’] (Oxford: Oxford University Press, 2007), ch. 17.

24. Về chủ đề này, xem Đức Bênêđíctô XVI, Diễn văn cho giáo triều Rôma (26 tháng 1 năm 2013).

25. Xem Thánh Bernard, Sermo super Cant.[Bài giảng về Diễm Ca] 66, 10, trong Opera, tập. II (Roma: J. Leclercq, 1958), 184; Ấn bản tiếng Anh: St. Bernard's Sermons on the Canticle of Canticles .[Bài giảng của Thánh Bernard về Diễm Ca], do một linh mục ở Mount Melleray dịch (Dublin: Browne và Nolan, 1920), 270. “Vì chắc chắn đức tin của Giáo hội không kém đức tin của người phụ nữ Canaan... [người] xứng đáng được nghe: ‘Hỡi người đàn bà, đức tin của chị thật lớn!’”