ii) Các hình thức tham gia vào nhiệm cục bí tích

Cuộc sống của các tín hữu này không ngừng là một cuộc sống được mời gọi nên thánh. (30) Về mặt này, có một số cử chỉ cực kỳ có giá trị mà linh đạo truyền thống đã khuyến khích như một sự hỗ trợ cho những người trong những hoàn cảnh không cho phép họ tiếp cận các bí tích.

Trước hết tôi nghĩ đến giá trị của sự rước lễ thiêng liêng, tức là việc thực hành hiệp thông với Chúa Kitô Thánh Thể trong lời cầu nguyện, dâng lên Người ước muốn Mình và Máu Người, cùng với nỗi hối hận của mình trước những trở ngại cho việc thực hiện mong muốn đó. Thật sai lầm khi nghĩ rằng việc thực hành này không liên quan đến nhiệm cục bí tích của Giáo hội. Trên thực tế, điều gọi là “việc rước lễ thiêng liêng” sẽ không có ý nghĩa gì nếu không có nhiệm cục bí tích đó. Đó là một hình thức tham dự Bí tích Thánh Thể được cung ứng cho mọi tín hữu; và nó phù hợp với cuộc hành trình của một người đang ở trong một trạng thái hoặc điều kiện cụ thể nào đó. Nếu hiểu theo cách này, việc thực hành như vậy sẽ củng cố ý nghĩa của đời sống bí tích.

Một cách thực hành tương tự đối với bí tích Hòa Giải có thể được đề xuất một cách hệ thống hơn. Khi không thể lãnh nhận Bí tích Giải tội, sẽ rất hữu ích nếu cổ vũ những thực hành được Kinh thánh coi là đặc biệt phù hợp để bày tỏ lòng sám hối và cầu xin sự tha thứ, cũng như cổ vũ nhân đức sám hối (x. 1 Pr 4:7–9). Tôi đặc biệt nghĩ đến các công việc bác ái, đọc Lời Chúa và các cuộc hành hương. Khi thích hợp, điều này có thể đi kèm với những cuộc gặp gỡ thường xuyên với một linh mục để thảo luận về hành trình đức tin của mình. Những cử chỉ này có thể bày tỏ ước muốn thay đổi và cầu xin Thiên Chúa tha thứ trong khi chờ đợi hoàn cảnh cá nhân của mình phát triển theo cách cho phép mình tiếp cận các bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. (31)

Cuối cùng, dựa trên kinh nghiệm mục tử của mình, tôi muốn nhắc lại rằng không thể không đề nghị với những tín hữu này, với những điều kiện nhất định và với sự theo dõi thích hợp, “sự cam kết sống tiết dục hoàn toàn,” như Thánh Gioan Phaolô II đã tuyên bố, “nghĩa là tránh những hành vi riêng của vợ chồng.” (32) Tôi có thể nói, sau nhiều năm làm mục vụ giám mục, đây là một nẻo đường – bao gồm cả hy sinh lẫn niềm vui – được ân sủng của Thiên Chúa làm cho khả thi trong thực tế. Tôi đã có cơ hội cho rước lễ trở lại những người Công Giáo đã ly dị và tái hôn, những người đã đi đến quyết định như vậy sau khi suy nghĩ chín chắn. Kinh nghiệm mục vụ cũng dạy chúng ta rằng những hình thức tham gia vào nhiệm cục bí tích này không mang tính chất giảm đau. Đúng hơn, từ quan điểm hoán cải vốn là đặc trưng của đời sống Kitô hữu, chúng là nguồn bình an thường xuyên.

e) Các trường hợp hôn nhân vô hiệu

Để kết luận, chúng ta phải xem xét hoàn cảnh của những người tin vào lương tâm rằng cuộc hôn nhân của họ là vô hiệu. Những gì chúng ta đã nói cho đến nay về sự dị biệt giới tính và mối liên hệ nội tại giữa hôn nhân và Bí tích Thánh Thể đòi hỏi sự suy gẫm cẩn thận về các vấn đề liên quan đến việc tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Khi nhu cầu xuất hiện và vợ cHồng Yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu, điều cần thiết là phải xác minh một cách nghiêm ngặt xem cuộc hôn nhân có thành sự hay không và do đó có bất khả tiêu hay không.

Đây không phải là dịp để lặp lại những khuyến nghị hợp tình hợp lý xuất hiện trong các câu trả lời cho bảng câu hỏi được trình bày trong Tài liệu làm việc liên quan đến cách tiếp cận có tính tất yếu mục vụ đối với toàn bộ các vấn đề này. (33) Chúng ta biết rất rõ đối với những người liên quan việc quay về quá khứ của chính họ, nơi được đánh dấu bằng sự đau khổ sâu xa khó khăn như thế nào. Ở bình diện này, chúng ta cũng thấy tầm quan trọng của việc phải coi giáo lý và giáo luật như một sự thống nhất.

i). Đức tin và bí tích hôn nhân

Trong số những vấn đề cần xem xét kỹ hơn, chúng ta nên đề cập đến mối quan hệ giữa đức tin và bí tích hôn nhân, điều mà Đức Bênêđíctô XVI đã đề cập nhiều lần, kể cả vào cuối triều giáo hoàng của ngài. (34) Thật vậy, sự liên quan của đức tin với tính thành sự của bí tích là một trong những chủ đề mà tình hình văn hóa hiện nay, đặc biệt là ở phương Tây, buộc chúng ta phải cân nhắc rất kỹ lưỡng. Ngày nay, ít nhất là trong một số bối cảnh nào đó, không thể coi là đương nhiên việc các cặp vợ chồng tổ chức lễ cưới có ý định “làm những gì Giáo hội dự định làm”. Sự thiếu đức tin ngày nay có thể dẫn tới việc loại trừ chính các điều tốt của hôn nhân. Mặc dù không thể đưa ra phán quyết cuối cùng về đức tin của một người, nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự cần thiết của một đức tin tối thiểu, nếu không có đức tin thì bí tích hôn nhân sẽ vô hiệu.

ii) Một gợi ý

Thứ hai, như Tài liệu làm việc cũng nêu rõ, người ta hy vọng có thể tìm ra cách nào đó để đẩy nhanh các trường hợp tuyên bố vô hiệu – hoàn toàn tôn trọng tất cả các thủ tục cần thiết – và làm cho bản chất mục vụ sâu xa của các tiến trình này trở nên rõ ràng hơn. (35) Theo hướng này, Phiên bất thường sắp tới có thể đề nghị Đức Giáo Hoàng tán thành rộng rãi hơn một chút [valorizzare di più] đối với thừa tác vụ của giám mục. Một cách chuyên biệt, có thể gợi ý rằng ngài nên xem xét tính khả thi của đề xuất, vốn chắc chắn là phức tạp, trong việc tạo ra một thủ tục giáo luật phi tư pháp mà trọng tài cuối cùng của nó chứ không phải một thẩm phán (hoặc một hội đồng thẩm phán), mà đúng hơn là giám mục, hoặc vị đại diện của ngài. Ý tôi là một thủ tục được luật Giáo hội quy định, với các phương pháp chính thức để thu thập và đánh giá bằng chứng. (36) Thí dụ (một cách giả thiết), người ta có thể thăm dò việc sử dụng đến các phương thức sau: sự hiện diện ở mọi giáo phận hoặc trong một nhóm của các giáo phận nhỏ về dịch vụ tư vấn cho những người Công Giáo có nghi ngờ về tính thành sự của cuộc hôn nhân của họ. Từ đó, người ta có thể bắt đầu một tiến trình giáo luật để đánh giá tính thành sự của mối ràng buộc, được thực hiện bởi một người được bổ nhiệm thích đáng (với sự giúp đỡ của những nhân viên có trình độ như công chứng viên theo yêu cầu của giáo luật); diễn trình này sẽ rất nghiêm ngặt trong việc thu thập bằng chứng, những bằng chứng này sẽ được chuyển đến giám mục, cùng với ý kiến của chính người được bổ nhiệm, của người bảo vệ dây hôn phối, và của người đang hỗ trợ nguyên đơn. Giám mục (người cũng có thể giao phó trách nhiệm này cho người khác có thẩm quyền được ủy quyền) sẽ được triệu tập để quyết định xem cuộc hôn nhân có vô hiệu hay không (ngài có thể tham khảo ý kiến của một số chuyên gia trước khi đưa ra ý kiến riêng của mình). Một trong hai người phối ngẫu luôn có thể kháng cáo quyết định đó lên Tòa Thánh. Đề xuất này không phải là một mánh lới quảng cáo để giải quyết tình huống tế nhị của những người ly dị và tái hôn, nhưng có ý làm rõ hơn mối liên hệ giữa giáo lý, việc chăm sóc mục vụ và giáo luật.

4. Làm Chứng Cho Tin Mừng Gia Đình

Trong những trang này, tôi muốn trình bày những suy tư nhân học và bí tích về hôn nhân và gia đình trong viễn ảnh Phiên họp bất thường sắp tới của Thượng Hội đồng Giám mục, rút ra một số kết luận từ đó và đưa ra một gợi ý liên quan đến thủ tục về việc xác minh tính thành sự của dây hôn phối.

Tuy nhiên, trong việc cổ vũ hôn nhân và gia đình, tôi không bỏ qua sự cần thiết phải liên tục dựa vào kinh nghiệm vững chắc về sự thánh thiện của gia đình được tìm thấy trong toàn dân Chúa ở các bối cảnh địa lý và văn hóa khác nhau. Điểm mạnh nhất của việc đổi mới việc chăm sóc mục vụ gia đình chỉ có thể là trở thành nhân chứng. (37) Cuối cùng, có thể giải quyết các tình huống đau khổ và khó khăn một cách tích cực nhờ có rất nhiều cặp vợ chồng đã sống cuộc sống hôn nhân của họ trong tình yêu và sự chung thủy. Khi đến thăm các giáo xứ và cộng đoàn, tôi luôn cảm động được gặp rất nhiều cặp vợ chồng lớn tuổi, sau bốn mươi, năm mươi hoặc thậm chí sáu mươi năm, nói với niềm vui dịu dàng về cuộc hôn nhân của họ và làm chứng về cách thức, với sự giúp đỡ của Chúa và với sự hỗ trợ thực tế của cộng đồng Kitô giáo, rất nhiều thử thách và đau khổ đã có thể được đối đầu và vượt qua. Tôi cũng phải nhớ lại với lòng biết ơn sâu xa chứng tá của những người đã chịu đựng sự bỏ rơi của người phối ngẫu và đã chọn trung thành với dây hôn phối. Họ không phải là hiếm, và họ là dấu chỉ mạnh mẽ về những gì ân sủng của Chúa Kitô có thể thực hiện được khi tự do của con người mở ra chào đón nó.

Hơn nữa, về mặt mục vụ, tôi cho rằng thật thực tế và hữu hiệu khi tin chắc rằng ngay cả ngày nay hôn nhân vẫn chứng tỏ là [hình thức khách quan] quý giá, vừa vượt lên trên vừa chứa đựng mọi khao khát của một cá nhân muốn “thoát khỏi” những ràng buộc của nó và tự khẳng định chính mình. Hôn nhân là thực tại không thể hòa tan, với bàn tay sắt đối đầu với mọi khuynh hướng tan rã của hiện hữu. Và nó thúc ép người đang chùn bước phải lớn lên, vượt lên trên bản thân mình, để đạt được tình yêu đích thực bằng cách xây dựng cuộc sống mình theo hình thức đã được quy định. Khi họ thực hiện lời hứa của mình, đôi vợ chồng không dựa vào chính họ—những [đụn cát] hay thay đổi của tự do họ—mà đúng hơn dựa vào hình thức [cuối cùng là Chúa Giêsu Kitô] đã chọn họ vì họ đã chọn nó. Hình thức này trải dài khắp các bình diện của cuộc sống—từ gốc rễ sinh học của nó cho đến đỉnh cao của ân sủng và sự sống trong Chúa Thánh Thần. (38)

Các giám mục họp mặt tại Thượng Hội đồng Giám mục bất thường lần thứ ba, được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần và được củng cố bởi những chứng từ về sự thánh thiện của gia đình, sẽ có thể chỉ ra cho Đức Thánh Cha cách tốt nhất để thể hiện vẻ đẹp của Tin Mừng gia đình với toàn thế giới.

Communio 41 (Mùa hè 2014). © 2014 bởi Communio: Tạp chí Công Giáo Quốc tế
Bản dịch tiếng Anh của Michael J. Miller.
Đức Hồng Y ANGELO SCOLA là tổng giám mục của Milan
.
_____________________________________________________________________________________

Các Ghi Chú

(1). Đức Thánh Cha đã xem xét sâu sắc, trong những dịp quan trọng, các chủ đề 1) về đặc điểm độc đáo của sự dị biệt giữa hai giới tính, một thực tại tích cực do chính Đấng Tạo Hóa mong muốn, nhờ đó 2) cá nhân được dẫn nhập vào tình yêu, 3) khám phá ra điều tốt đẹp của người khác, 4) vào việc trung thành và trao ban chính mình một cách hữu hiệu, và 5) đến hạnh phúc. Vì vậy, thật dễ hiểu khi Đức Giáo Hoàng quyết định mời gọi toàn thể Giáo hội vào một cuộc suy tư sâu sắc về gia đình và, lần đầu tiên, dành hai kỳ Thượng Hội đồng về gia đình. Xem Đức Phanxicô, Ánh sáng đức tin, 52; Niềm vui Tin Mừng, 66; Diễn văn với các cặp đính hôn chuẩn bị kết hôn (14 tháng 2 năm 2014); Tiếp kiến chung (02/04/2014).

(2) Xem Tài liệu làm việc, “Những thách thức mục vụ đối với gia đình trong bối cảnh Phúc âm hóa” (từ đây gọi là IL), 13 và 62.

(3) Xem IL, 15–16, 22, 112, 126–27.

(4) Từ góc độ này, chúng ta phải ghi nhận sự đóng góp to lớn được Thánh Gioan Phaolô II thực hiện cho một nền nhân học thỏa đáng, đặc biệt, đối với chủ đề đang được xem xét ở đây, qua những bài giáo lý nổi tiếng của ngài về tình yêu con người, được đề cập rõ ràng trong Tài liệu làm việc như một đóng góp quyết định đáng được khai triển hơn nữa: (x. IL, 5 và 18).

(5) Xem Marc Ouellet, Mistero e Sacramento dell'amore: Teologia del matrimonio e della famiglia per la nuova evangelizzazione [Mầu nhiệm và Bí tích Tình yêu: Thần học về hôn nhân và gia đình cho việc tân Phúc Âm hóa] (Siena: Cantagalli, 2007).

(6.) Xem Angelo Scola, Chi è la Chiesa? Una chiave antropologica e sacramentale per l’ecclesiologia [Giáo Hội là ai? Chìa khóa nhân học và bí tích của giáo hội học], BTC 130 (Brescia: Queriniana, 2005).

7. Xem Angelo Scola, The Nuptial Mystery [mầu nhiệm hôn nhân], Bản tiếng Anh của Michelle K. Borras (Grand Rapids, MI: Công ty xuất bản William B. Eerdmans, 2005), 258–71.

(8) Xem Angelo Scola, Il mistero nuziale: una prospettiva di teologia sistemica?[ Mầu nhiệm hôn nhân: một quan điểm thần học có hệ thống]
(Rome: Nhà xuất bản Đại học Lateran, 2000).

(9) Xem Bruno Ognibeni, Il matrimonio alla luce del Nuovo Testamento [Hôn nhân dưới ánh sáng Tân Ước] (Rome: Nhà xuất bản Đại học Lateran, 2007). Để khảo sát về hôn nhân trong Cựu Ước, xem Carlos Granados, El camino del hombre por la mujer: El matrimonio en el Antiguo Testamento [Hành trình của người đàn ông đến với người phụ nữ: Đám cưới trong Cựu Ước] (Estella: Verbo Divino, 2014).

(10) Xem Angelo Scola, L'esperienza elementaria: La vena profonda di Giovanni Paolo II [Kinh nghiệm cơ bản: Tĩnh mạch (?) sâu xa của Đức Gioan Phaolô II] (Genoa-Milan: Marietti, 2003) và “Which Foundation? Introductory Notes,” [Nền tảng nào? Ghi chú dẫ nhập] Communio: Tạp chí Công Giáo Quốc tế 28 (Mùa thu 2001): 549–67.

(11) Xem Scola, The Nuptial Mystery [mầu nhiệm hôn nhân], 213–38; Livio Melina, “Il corpo nuziale e la sua vocazione all’amore,” [Thân xác phu thê và ơn gọi yêu thương của nó] trong Giuseppe Angelini, et al., Maschio e femmina li creò [Nam và nữ Người đã tạo ra họ] (Milan: Glossa, 2008), 89–116.

(12) Xem Giovanni Salmeri, Determinazioni dell'affetto [Xác định xúc cảm], Dialegesthai 15 (Rome: Aracne, 2013), 113–37; Hans Urs von Balthasar, Theo-Drama: Theological Dramatic Theory [Thần-Kịch: Lý thuyết bi kịch thần học], tập. 2: Dramatis Personae: Man in God, bản dịch của Graham Harrison (San Francisco: Nhà xuất bản Ignatius, 1990), 365–66. Tài liệu tham khảo cổ điển về chủ đề là: Aristotle, Metaphysics [Siêu hình học] X, 3; Hegel, Science of Logic [Khoa học luận lý], II, 1.

(13). Thuật ngữ này tuy bất thường nhưng rất quan trọng. Xem Mario Binasco, La Differentenza umana: L'interesse teologico della psicoanalisi [Sự dị biệt nhân bản: Mối quan tâm thần học của phân tâm học] (Siena: Cantagalli, 2013), 26–31.

(14) Xem Marguerite A. Peeters, Le gender, une norme mondiale? Pour un discernement [Phái tính, một qui chuẩn thế giới? Để biện phân] (Paris: Mame, 2013); Theodore R. Bach, “Gender Is a Natural Kind with a Historical Essence,” [Phái tính là một loại tự nhiên với Yếu tính Lịch sử]” Ethics 122 (2012): 231–72; Laura Palazzani, Sex/gender: gli equivoci dell’uguaglianza [Giới tính/phái tính: những hiểu lầm về bình đẳng Tình dục] (Turin: G. Giappichelli, 2011); Paolo Gomarasca, “L’idea di natura nei ‘Gender studies,’” [Ý niệm bản chất trong 'Nghiên cứu phái tính] trong Francesco Botturi và
Roberto Mordacci, Natura in etica [bản chất trong đạo đức học] (Milan: Vita e Pensiero, 2009), 175–90; Giuseppe Angelini, “Passaggio al postmoderno: il Gender in questione,” [Quá độ sang chủ nghĩa hậu hiện đại: Giới tính đang được đề cập] trong Angelini và cộng sự, Maschio e feminna li creò [Nam và nữ Người đã tạo ra họ], 263–96.

(15) Xem Bộ Giáo lý Đức tin, Thư gửi các Giám mục Giáo Hội Công Giáo về sự cộng tác giữa nam giới và phụ nữ trong Giáo hội và trong thế giới (31/05/2004), 2. Bản dịch tiếng Anh tại website Vatican: http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_
doc_20040731_collaboration_en.html.

(16) Xem bản tóm tắt về đường khai triển này được trình bày trong Aristide Fumagalli, “Genere e generazione: Rivendicazioni e implicazioni dell’odierna cultura sessuale,” [Giới tính và thế hệ: Những tuyên bố và hàm ý của văn hóa tình dục ngày nay] La Rivista del Clero Italiano 95 (2014): 133–47, đặc biệt. 135–40. Không thiếu những tài liệu duy nữ có giá trị dành cho việc nghiên cứu sâu hơn về chủ đề khác biệt: Anne Stevens, Women, Power, and Politics [Phụ nữ, Quyền lực và Chính trị] (New York: Palgrave Macmillan, 2007); Adriana Cavarero, Nonostante Platone: Figure femminili nella filosofia antica [Bất chấp Platông: Những nhân vật nữ trong triết học cổ thời] (Verona: Ombre Corte, 2009); Marina Terragni, La scomparsa delle donne [Sự biến mất của phụ nữ] (Milan: Mondadori, 2007); Luce Irigaray, In tutto il mondo siamo sempre in due [Khắp thế giới luôn có hai chúng ta] (Milan: Baldini Castoldi Đạt Lai, 2006); Luisa Muraro, Il Dio delle donne [Thiên Chúa của phụ nữ] (Milan: Mondadori, 2003).

(17) Xem Scola, The Nuptial Mystery [Mầu nhiệm Hôn nhân], 215.

18 Xem Angelo Scola, “Il mistero nuziale: Originarietà e fecondità,” [Mầu nhiệm hôn nhân: tính độc đáo và sinh hoa trái], Anthropotes 23 (2007): 57–70.

(19) Xem José Granados, Una sola carne en un solo espíritu: Teología del matrimonio [Một xương thịt trong một tinh thần: Thần học hôn nhân]
(Madrid: Palabra, 2014), 33–57; Nicola Reali, “Tamquam spoliatus a nudo: il rapporto tra matrimonio naturale e sacramento: Il punto di vista di un pastoralista,” [“Như bị lột trần: mối quan hệ giữa hôn nhân tự nhiên và bí tích: Quan điểm của một mục tử], Ephemerides Iuris Canonici 53 (2013): 391–425; Nicola Petrovich, “La ‘natura pura’ dell’uomo non esiste,” [‘Bản chất thuần khiết' của con người không hiện hữu] Marcianum 6 (2010): 41–64.

(20) X. Marc Ouellet, Divine Likeness: Toward a Trinitarian Anthropology of the Family [Họa ảnh Thiên Chúa: Hướng tới một nền nhân học Ba Ngôi về Gia đình] bản dịch của Philip Milligan và Linda M. Cicone (Grand Rapids, MI: W. B. Công ty xuất bản Eerdmans, 2006).

(21) Xem Jean-Luc Marion, The Erotic Phenomenon [Hiện tượng gợi dục], bản dịch của Stephen E. Lewis (Chicago: Nhà xuất bản Đại học Chicago, 2006), 41–53.

(22) Xem Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo (từ đây gọi là CCC), số 1643–54.

(23) Xem Alain Mattheeuws, Amarsi per donarsi: Il Sacramento del matrimonio [Yêu bản thân để trao ban chính mình: Bí tích hôn nhân] (Venice: Marcianum Press, 2008) và Les “dons” du mariage: Recherche de théologie morale et sacramentelle [Các “ơn ban” của hôn nhân: Đi tìm một nền thần học luân lý và bí tích] (Brussels: Culture et Vérité, 1996). Tác giả này đề xuất giả thuyết cho rằng những điều tốt đẹp của hôn nhân chính là mục đích của nó bởi vì trước hết chúng là những ơn ban.

(24) Xem Gabriel Richi Alberti, “Como Cristo amó a su Iglesia [Chúa Kitô đã yêu mến Hội thánh của Người như thế nào] (Ef 5, 25) trong Jean de Dios Larrú, biên tập, La grandeza del amor humano [Sự cao cả của tình yêu nhân bản] (Madrid: BAC, 2013), 125–47.

(25) X. IL, 93–95.

(26) Xem Bênêđíctô XVI, Sacramentum caritatis (Bí tích đức ái, từ đây gọi là SC), 29.

(27) Như SC, 28 tuyên bố, “Mối dây ràng buộc không thể phân rẽ, độc chiếm và chung thủy kết hợp Chúa Kitô và Giáo hội, tìm được biểu thức bí tích trong Bí tích Thánh Thể, tương ứng với sự kiện nhân học căn bản này là người đàn ông có ý định được kết hợp dứt khoát với một người đàn bà và ngược lại (x. St 2:24; Mt 19:5)”.

(28) Xem Gilles Pelland, “La pratica della Chiesa antica relativa ai fedeli divorziati risposati,” [Thực hành của Giáo Hội cổ xưa liên quan đến các tín hữu đã ly dị tái hôn] trong Bộ Giáo Lý Đức Tin, On the Pastoral Care of the Divorced and Remarried [Về Mục Vụ Chăm sóc người ly dị và tái hôn] (Vatican City: LEV, 1998), 99–131; Walter Brandmüller, “Den Vätern ging es um die Witwen,” [Các Giáo hụ quan tâm đến các góa phụ] Die Tagespost (27 Tháng 2 năm 2014): 7 (xem bản tóm tắt của cùng tác giả, “Divorziati risposati, così nella Chiesa primitive,” [Ly dị và tái hôn, như trong Giáo hội sơ khai], Avvenire (ngày 5 tháng 4 năm 2014).

(29) Sách Giáo Lý phân loại như “bí tích chữa lành” các bí tích Hoà Giải (CCC, số 1422–98) và Xức Dầu Bệnh Nhân (CCC, số 1499–1532).

(30) Xem Alain Mattheeuws, “L’amour de Dieu ne meurt jamais: La sainteté des divorcés remariés dans l'Église,” [Tình yêu của Thiên Chúa không bao giờ chết: Sự thánh thiện của những người ly dị tái hôn trong Giáo Hội] Nouvelle Revue Théologique 136 (2014): 423–44.

(31) Một số hướng dẫn này đã được khuyến nghị trong Sacramentum caritatis, trong số những điều khác, tuyên bố mạnh mẽ rằng những người đã ly hôn và tái hôn, bất chấp hoàn cảnh của họ, vẫn tiếp tục thuộc về Giáo hội. Họ trau dồi “đời sống Kitô giáo” qua việc “thường xuyên tham dự Thánh lễ, mặc dù không rước lễ, lắng nghe lời Chúa, tôn thờ thánh thể, cầu nguyện, tham gia vào đời sống cộng đồng, đối thoại chân thành với một linh mục hoặc cha linh hướng, cống hiến cho đời sống bác ái, các công việc sám hối và dấn thân giáo dục con cái” (29).

(32) Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ sáu (25/10/1980), 7, dịch từ bản tiếng Ý trong Acta Apostolicae Sedis 72 (1980): 1082.

(33) Xem IL, 103–04.

(34) Xem Đức Bênêđíctô XVI, Diễn văn khai mạc Năm Tư pháp Tòa án Rota của Rôma (26 tháng 1 năm 2013).

(35) Xem IL, 98–102.

(36) Thí dụ về các thủ tục hành chính hiện hành do giáo luật quy định là thủ tục giải quyết một cuộc hôn nhân không hoàn hợp (các điều giáo luật 1697–1706), hoặc vì lý do đức tin (các điều giáo luật 1143–50; các quy tắc riêng), hay cả các thủ tục hành chính hình sự (điều 1720).

(37) Xem IL, 59–60.

(38) Hans Urs von Balthasar, The Glory of the Lord: A Theological Aesthetics [Vinh quang của Chúa: Thẩm mỹ thần học], tập. 1: Seeing the Form [Thấy Hình thức], bản dịch của Erasmo Leiva-Merikakis (San Francisco: Ignatius Press, 1983), 27, bản dịch có sửa đổi.