III. Những Cởi Mở Đối Với Việc Hoán Cải Mục Vụ Tập Trung Vào Lòng Thương Xót Đối Với Các Gia Đình Ngày Nay

Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới sẽ có nhiệm vụ xem xét tình hình của các gia đình ngày nay và đưa ra những định hướng mục vụ có khả năng củng cố các cặp vợ chồng vẫn chung thủy trước những áp lực trái ngược, chữa lành những người bị tổn thương do thất bại trong tình yêu và giúp đỡ các gia đình trong những hoàn cảnh bất hợp qui, tuy nhiên, vẫn khao khát một cuộc sống ân sủng đích thực.

Trong số những người này rõ ràng có những người đã ly dị và tái hôn. Họ vẫn còn rất nhiều, mặc dù theo thống kê, đang suy giảm do sự biến hóa hiện nay ảnh hưởng đến hôn nhân như một giá trị xã hội và làm mất đi ý thức về hôn nhân như sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Nhiều người ngày nay không còn kết hôn nữa mà sống thử trong một khoảng thời gian ngắn hơn hoặc dài hơn do tình cảm và hoàn cảnh sống quyết định.

Một cách tiếp cận mục vụ tập trung vào lòng thương xót hẳn có lợi ích đầu tiên là cứu người nam và người nữ khỏi nỗi sợ phải dấn thân, một điều vốn gây trở ngại lớn cho việc tìm kiếm hạnh phúc của họ. Chỉ có một việc loan báo mới về Chúa Kitô Cứu Thế mới có thể giải phóng nhân loại khỏi sự trống rỗng ý nghĩa được thể hiện bằng nỗi sợ yêu thương trong khi Đấng Tạo Hóa thiết lập tình yêu này và Đấng Cứu Chuộc đã khôi phục lại nó. Ở đây chúng ta phải nhớ đến di sản của Đức Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng của gia đình. Cuối cùng, Thượng Hội đồng có thể phổ biến một cách đầy đủ di sản phong phú này qua một phương thức mục vụ hữu cơ đối với việc khai tâm Kitô giáo, chuẩn bị hôn nhân và đồng hành với các gia đình.

Đối với những người ly dị và tái hôn mong muốn được hợp thức hóa việc tham gia vào đời sống của Giáo hội, bằng mọi cách, họ phải được nồng nhiệt chào đón trong sự cởi mở để thực hiện con đường hoán cải, sám hối và tăng trưởng tâm linh. Với sự tôn trọng thận trọng đối với sự đa dạng của các tình huống và trách nhiệm trong những trường hợp tan vỡ hôn nhân mà thiếu giải pháp pháp lý thỏa đáng, những người như vậy phải được giúp đỡ để khôi phục lại cuộc sống kết hợp với Chúa Kitô trong hoàn cảnh mới của họ, trong giới hạn được sự thật về các bí tích của Giáo Hội áp đặt.

A. Vòng tay lớn của lòng thương xót phi bí tích

Điều này khiến họ đau đớn, nhưng nỗi đau đó có thể được hạn chế bằng một lời loan báo mới về lòng thương xót của Thiên Chúa, một lời loan báo vượt ra ngoài khuôn khổ bí tích thực sự. Chúa Kitô được sai đến giữa chúng ta để hòa giải thế giới với Thiên Chúa qua Thập Giá, cái chết và sự Phục Sinh của Người. Thế giới đã được hòa giải với Thiên Chúa qua việc hoàn thành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô. Sứ mệnh của Giáo hội là làm chứng cho sự kiện này bằng cách công bố kerygma [giáo lý sơ truyền] và cử hành các bí tích. Tuy nhiên, Giáo Hội không có quyền “quản lý” lòng thương xót một cách độc chiếm và toàn diện. Ngược lại, Giáo hội chỉ là một dấu hiệu được nêu ra trước mặt các dân tộc, chứng tỏ rằng lòng thương xót của Thiên Chúa liên quan đến toàn thể nhân loại.

Do đó, Giáo hội công bố một sự thật đã sở đắc được, và bằng các dấu chỉ bí tích, xác nhận lòng thương xót này lớn hơn các dấu hiệu và thậm chí còn lớn hơn cả những biên giới của Giáo hội. Chúng ta phải nói đi nói lại với những người đã ly dị tái hôn, những người đã ăn năn về lỗi lầm của mình và không có khả năng từ bỏ cuộc kết hợp mới của mình: Lòng thương xót của Thiên Chúa đến với họ một cách mật thiết trong hoàn cảnh mới của họ. Tuy nhiên, chúng ta không thể cấp cho họ quyền làm chứng công khai qua việc Rước lễ.

Ở trên chúng ta đã ám chỉ lý do về giới hạn này ở bình diện bí tích. Điều đang bị đe dọa là sự thật về lời chứng của Chúa Kitô. Hoàn cảnh mới của người ly dị tái hôn không cho phép họ bày tỏ chứng tá này một cách đích thực bởi vì sự kết hợp mới của họ mâu thuẫn với tình yêu của Chúa Kitô, Đấng đã trung thành cho đến chết. Về phía Giáo hội không phải là thiếu lòng thương xót nếu Giáo hội không cho phép lãnh nhận Bí tích Giải tội và Rước Thánh Thể, ngay cả sau khi người ly dị và tái hôn thực sự hoán cải. Điều đang bị đe dọa là lòng trung thành của Chúa Kitô với chứng tá của Người, điều mà Giáo hội không cảm thấy thoải mái khi sửa đổi kẻo phản bội sự thật vốn là nền tảng của tính bất khả phân ly của hôn nhân. Giới hạn đau đớn này không cản trở lòng thương xót thực sự chạm tới trái tim và tâm hồn của những người đang ở trong những hoàn cảnh bất hợp qui. Duy trì một giới hạn như vậy không tương đương với việc tuyên bố rằng những cặp vợ chồng này sống trong tội trọng hoặc họ bị từ chối rước lễ vì lý do luân lý này. Họ có thể thành tâm sám hối và nhận được ơn tha thứ, tuy nhiên họ vẫn không thể vui hưởng niềm an ủi của dấu chỉ bí tích. Tôi nhắc lại lý do cho giới hạn này đầu tiên không phải là luân lý; nó mang tính bí tích. Cuộc hôn nhân thứ hai của họ vẫn là một trở ngại khách quan không cho phép họ tham gia vào sự thật trong việc làm chứng công khai về tính bí tích của Chúa Kitô và Giáo hội.

B. Rước lễ thiêng liêng và rước lễ bí tích

Tuy nhiên, những người ly dị và tái hôn có thể khiêm tốn xin ơn được kết hợp với Chúa Kitô ngay cả khi không có các dấu chỉ bí tích. Cốt lõi của ân sủng bí tích có thể được truyền đạt cho các cặp vợ chồng này dưới hình thức “rước lễ thiêng liêng”, đây không phải là một sự thay thế mờ nhạt cho việc Rước lễ bí tích, mà đúng hơn là một chiều kích của việc rước lễ. Mọi việc Rước lễ theo Bí tích Mình và Máu Chúa Kitô trước hết phải là một biểu hiện của sự rước lễ thiêng liêng, nghĩa là, trạng thái ân sủng được việc Rước lễ Thánh Thể nuôi dưỡng và tăng cường. Ngoài việc rước lễ thiêng liêng này, thánh tông đồ Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng “ai ăn uống mà không phân biệt thân xác là ăn và uống sự phán xét chính mình” (1 Cr 11:29).

Do đó, việc công bố lòng thương xót của Giáo hội trước tiên phải làm rõ điểm này và tái khẳng định rằng những người ly dị và tái hôn có quyền tiếp cận chiều kích thiêng liêng này của việc Rước lễ bí tích. Hơn nữa, Hội Thánh phải mở rộng ý nghĩa của việc Rước lễ bí tích theo chiều hướng cởi mở mà Công đồng Vatican II đã tạo ra liên quan tới tính bí tích của Giáo hội. Thực vậy, có một mối liên kết không thể tách rời giữa sự hiệp thông vào Thân Mình Thánh Thể của Chúa Kitô và sự hiệp thông vào Thân Mình Giáo Hội của Người. Chúng ta không thể nói “Amen” với Mình Chúa Kitô mà chúng ta lãnh nhận khi Rước lễ mà không đồng thời chào đón Thân Mình Giáo Hội của Người, không có cam kết bác ái đối với tất cả các thành viên của Thân Mình này. Từ quan điểm này, các tín hữu phải được giúp đỡ để đánh giá cao tất cả các khía cạnh của việc Rước lễ bí tích, chẳng hạn, việc tham gia vào cộng đoàn phụng vụ, cho phép họ dâng hy tế của Chúa Kitô với những người khác, cũng như tình bằng hữu được cảm nghiệm trong các hoạt động hoặc trong các sáng kiến vì người nghèo của cộng đồng.

Cũng như ân sủng không bị ràng buộc vào trật tự bí tích trong trường hợp những người không phải là Kitô hữu hoặc những Kitô hữu khác thế nào, trong trường hợp các tín hữu bị khuyết tật về bí tích, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn hoạt động trong cuộc sống của họ như thế. Những tín hữu này tiếp tục làm chứng cho lòng trung thành tuyệt đối của Chúa Kitô bằng cách kiêng tiếp nhận Mình Thánh Chúa, vì tôn trọng Người bạn đồng hành thiêng liêng, Đấng đã không phá vỡ sự kết hợp đầu tiên bất chấp sự thất bại của cặp vợ chồng. Muốn rước lễ bằng bất cứ giá nào có nghĩa là buộc Người Bạn đồng hành thiêng liêng này tham gia vào một chứng tá giả.

Ngoại trừ những trường hợp thực sự ngoại lệ, trong đó con đường pháp lý đối với việc công nhận tính vô hiệu là bất khả nhưng vẫn có sự xác tín mục vụ về tính vô hiệu đó, tôi không thấy, trong trường hợp những người đã kết hôn thành sự, rồi ly dị và tái hôn, một con đường sám hối làm khả hữu ra sao việc lãnh nhận ơn giải tội và rước lễ. Đối với tôi, dường như điều quan trọng nhất là các trường hợp ngoại lệ chỉ liên quan đến lĩnh vực xác tín về tính vô hiệu, và loại trừ phạm vi của một cuộc hoán cải thực sự sau sự thất bại của cuộc hôn nhân bí tích đầu tiên. (19) Không có sự hoán cải nào có thể thay đổi được tác dụng đệ nhất đẳng của bí tích, tức mối dây liên hệ vợ chồng, bất khả phân ly vì nó gắn liền với chứng tá của chính Chúa Kitô. Hành động khác có nghĩa là tuyên xưng tính bất khả phân ly của hôn nhân bằng lời nói và phủ nhận nó bằng thực hành, từ đó gieo rắc sự nhầm lẫn trong dân Chúa, đặc biệt nơi những người đã hy sinh cơ hội xây dựng lại cuộc đời vì lòng trung thành với Chúa Kitô.

Những cởi mở mới đối với cách tiếp cận mục vụ dựa trên lòng thương xót phải diễn ra trong tính liên tục của truyền thống tín lý của Giáo hội, vốn nói lên lòng thương xót Thiên Chúa. Ngay trong những giới hạn được áp đặt lên việc lãnh nhận các bí tích, Giáo hội, Hiền thê của Chúa Kitô, cũng quan tâm đến hạnh phúc của con cái mình; và Giáo Hội biết rằng hạnh phúc này không thể tìm thấy ở đâu khác ngoài sự thật của Giao ước. Chính từ điều này mà cách tiếp cận mục vụ về lòng thương xót của Giáo Hội đứng vững hay sụp đổ.

Trong tính sáng tạo mục vụ của Giáo hội đối với các vấn đề hôn nhân và gia đình, Giáo hội phải mở rộng quan điểm về việc Rước lễ bí tích trong chức năng tính bí tích của Giáo hội. Giáo hội phải tái khẳng định khả thể có một cuộc sống ân sủng đích thực ngay cả khi không tham gia đầy đủ vào trật tự bí tích; và mời gọi những người ở trong mọi hoàn cảnh bất hợp qui đừng rời xa cộng đoàn, nhưng dấn thân với cộng đoàn một cách huynh đệ và luôn nhớ rằng “bác ái che đậy vô số tội lỗi” (1 Pr 4:8). Giáo Hội cũng phải nhắc nhở họ rằng việc hiệp thông vào Thánh Thể có thể diễn ra thông qua các hình thức tôn sùng Thánh Thể khác, vốn nuôi dưỡng việc rước lễ thiêng liêng: rước kiệu, chầu Thánh Thể, viếng Thánh Thể, v.v. Nói tóm lại, đừng để chúng ta bị mắc kẹt trong một tầm nhìn quá hạn hẹp về việc Rước lễ trong trường hợp những người ly dị và tái hôn. Đồng thời, chúng ta hãy tìm cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các trường hợp tuyên bố vô hiệu.

C. Tiêu chuẩn của tính vô hiệu hôn nhân bí tích

Ngày nay, công việc của các tòa án hôn phối trở nên cần thiết hơn bao giờ hết trong việc phân định các trường hợp trong đó hôn nhân vô hiệu, qua việc xem xét sự thật của mối dây vợ chồng vốn là nền tảng để thừa nhận hay không thừa nhận tính vô hiệu. Công việc này phải được thực hiện một cách khách quan và vô tư, trong tinh thần mục vụ đích thực, luôn ghi nhớ lòng trung thành của Giáo hội đối với mầu nhiệm Giao ước và luật tối cao về việc cứu rỗi các linh hồn.

Trong nhiều dịp, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nêu lên vấn đề về mối liên hệ giữa đức tin và bí tích, vì trong các hoàn cảnh mục vụ ngày nay, chúng ta thường gặp những người đã được rửa tội nhưng không tin. Làm thế nào chúng ta có thể xác định giới hạn mà việc thiếu đức tin sẽ làm mất hiệu lực của bí tích? Liệu việc những người yêu cầu kết hôn được rửa tội và có một ý định mơ hồ “làm những gì Giáo hội làm” có luôn là điều đủ không? Đây là một câu hỏi phức tạp cần được quan tâm và tìm kiếm các tiêu chuẩn thích hợp.

Việc khảo sát giáo luật tiền hôn nhân thăm dò ý định dấn thân của vợ chồng tương lai trong khi thừa nhận các mục đích riêng của hôn nhân, tương ứng với “những thiện ích” được truyền thống sau Thánh Augustinô xác định: lòng chung thủy (fides), sinh sản (proles), và tính bất khả phân ly (sacramentum). Việc chính thức bác bỏ các mục đích này sẽ khiến cho việc cử hành bí tích trở nên bất khả. Trong trường hợp này, sự đồng ý của vợ chồng sẽ vô hiệu vì nó không tương ứng với bản chất của hợp đồng hôn nhân và do đó của bí tích. Về vấn đề này, Thánh Gioan Phaolô II đã làm rõ vào năm 2003 rằng “một thái độ của những người kết hôn không tính đến chiều kích siêu nhiên của hôn nhân chỉ có thể khiến hôn nhân trở nên vô hiệu nếu nó làm suy yếu giá trị của nó ở bình diện tự nhiên, trên đó chính dấu hiệu bí tích diễn ra.” (20)

Tuy nhiên, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã mời gọi chúng ta tiếp tục suy ngẫm về bonum coniugum [thiện ích hôn nhân]. Ngài đã chứng tỏ tầm quan trọng của đức ái dựa trên đức tin đối với việc hiện thực hóa đích thực thiện ích này của hôn nhân: “trong quyết tâm của các cặp vợ chồng Kitô giáo để sống communio coniugalis [một hiệp thông vợ chồng thực sự] là một động lực riêng của đức tin, mà lời tuyên xưng, lời đáp trả bản thân chân thành đối với lời loan báo ơn cứu độ, lôi kéo người tin vào sự thúc đẩy của tình yêu Thiên Chúa.” (21) Việc thiếu đức tin sống động ảnh hưởng đến việc tham gia này và do đó ảnh hưởng đến bonum coniugum. Trong một số trường hợp, nó thậm chí có thể vô hiệu hóa việc ưng thuận: “thí dụ, trong giả thuyết về sự phá vỡ của một trong hai người họ, vì quan niệm sai lầm về mối dây hôn nhân, về nguyên tắc bình đẳng, hoặc trong trường hợp về việc từ chối sự kết hợp vợ chồng vốn phân biệt mối quan hệ hôn nhân, cùng với việc có thể đồng thời loại trừ sự chung thủy và việc thực hành quan hệ vợ chồng một cách modo humano [cách thức nhân bản], một cung cách thực sự của con người.” (22)

Các tòa án giáo hội đã quen thuộc với những tiêu chuẩn phân định này, nhưng vấn đề về mối liên hệ giữa đức tin với bí tích đáng được nghiên cứu thêm. Có cần phải có đức tin tối thiểu từ phía những người đính hôn để bí tích thành sự không? Việc họ xin kết hôn có đủ để chúng ta đánh giá rằng họ “có ý định làm những gì Giáo hội làm” không? Không có câu trả lời trừu tượng cho những câu hỏi này, vì mỗi trường hợp phải được xử lý riêng.

Lưu ý tới vai trò của Giáo hội trong việc cử hành các bí tích, được đề cập ở trên, tôi muốn nói rằng con đường tiêu cực là đủ: nghĩa là từ chối việc tiếp nhận bí tích (hoặc sau này, thừa nhận tính vô hiệu của hôn nhân) nếu các cặp đính hôn không thừa nhận mình là thành viên của Giáo hội qua lễ rửa tội, tuyên bố công khai mình là người không tin, và/hoặc tỏ ra không quan tâm đến việc đi theo một con đường chuẩn bị nào đó ngoài một cuộc họp được coi là một hình thức pháp lý thuần túy. Cuộc đối thoại mục vụ với những người xin kết hôn, được tiến hành với sự tôn trọng và thân tình, do đó phải giúp họ hiểu được nghĩa vụ của Giáo hội đối với sự thật của các bí tích đức tin.

Trong mọi trường hợp, chúng ta không được đánh giá thấp tiềm năng truyền giáo được thể hiện qua việc một cặp vợ cHồng Yêu cầu hôn nhân của họ được cử hành trong Giáo hội. Rất ít hoàn cảnh của con người thuận lợi cho việc loan báo Tin Mừng và cho cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô như biến cố của tình yêu giữa một người nam và một người nữ, cho phép họ trải nghiệm một điều gì đó về mầu nhiệm Thiên Chúa là Tình Yêu.

KẾT LUẬN

Vấn đề hôn nhân đã được Giáo hội chú ý kể từ Công đồng Vatican II, bởi vì tương lai của việc truyền giáo phải trải qua gia đình.

Đức Gioan Phaolô II thường bày tỏ niềm xác tín này, vốn dựa trên vai trò của hôn nhân và gia đình trong tính bí tích của Giáo hội. Sứ mạng của Giáo Hội, như Thân Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô, là truyền bá sự hiệp thông của Ba Ngôi, để nó thấm nhập vào nhân loại. Tính bí tích của Giáo hội được thể hiện rõ ràng xung quanh bảy bí tích. Chúng cấu trúc mối tương quan Giao Ước giữa Chúa Kitô và Giáo Hội như một mầu nhiệm hôn nhân, hoa trái phát sinh từ việc cử hành Bí Tích Rửa Tội và Thánh Thể. Giáo hội tại gia được thành lập dựa trên bí tích hôn phối diễn ra trong “kiến trúc” thần học bí tích mang tính giáo hội này. Gia đình được phúc âm hóa và phúc âm hóa đến mức vẻ đẹp của “cộng đồng sự sống và tình yêu” (23) của nó cho phép chứng tá của Tình yêu Ba Ngôi tỏa sáng qua nó, giống như vẻ huy hoàng của Nhà thờ Sagrada Familia [Thánh Gia] ở Barcelona. Nhà thờ vĩ đại thu hút ánh nhìn của cả thế giới khi mọi người bị mê hoặc bởi vẻ đẹp và sự độc đáo của nó. Vậy chúng ta hãy công khai và can đảm tuyên bố niềm xác tín rằng gia đình là nguồn lực lớn lao để đạt được một cuộc hoán cải mục vụ đích thực trong một Giáo hội hoàn toàn truyền giáo.

Trong mọi gia đình được thiết lập trên hôn nhân bí tích, Chúa Kitô và Giáo hội kéo dài chứng tá thần thiêng và nhân bản của họ vốn có tính trung thành bất khả phân ly và sinh hoa trái. Sự mong manh, lỗi lầm và thất bại của nhiều cặp vợ chồng ngày nay càng là lý do để có một tuyên bố mới về Tin Mừng gia đình và cách tiếp cận mục vụ dựa trên lòng thương xót, mang lại hòa bình, hòa giải và nhiều hình thức chữa lành cho mọi gia đình.

Được thúc đẩy bởi các cuộc tranh luận hiện nay, lòng bác ái nhân hậu của các mục tử sẽ càng hiệu quả và an ủi hơn nếu nó được đặt nền tảng rõ ràng trên sự thật của Giao ước: lòng trung thành tuyệt đối của Chúa Kitô và Giáo hội, được thể hiện trong mọi hôn nhân bí tích như lời cam kết của hạnh phúc và niềm vui cho nhân loại.

“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly!” (Mt 19:19; Mc 10:9).

Communio 41 (Mùa hè 2014). © 2014 bởi Communio: Tạp chí Công Giáo Quốc tế

* Bài phát biểu này ban đầu được trình bày tại Lễ khai mạc Năm Tư pháp của Tòa án Giáo hội Valencia (Valencia, Tây Ban Nha, ngày 27 tháng 3 năm 2014). Bản tiếng Anh của Michelle K. Borras.
_______________________________________________________________________
(1) Xem Vatican II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới hiện đại, Gaudium et spes (từ đây gọi là GS), phần 2, ch. 1.

(2) Đức Gioan Phaolô II, Man and Woman He Created Them: A Theology of the Body [Đàn Ông và Đàn Bà Người đã Tạo dựng Họ: Thần học về Thân xác] bản dịch của Michael Waldstein (Pauline Books and Media 2006); Tông huấn Familiaris consortio [Vai trò của Gia đình Kitô giáo trong Thế giới Hiện đại] (từ đây gọi là FC) (1981); Tông thư Mulieris Dignitatem [Về phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ] (1988); Letter to Families [Thư gửi gia đình] (1994).

(3) Cuộc phỏng vấn Đức Giáo Hoàng Phanxicô của Antonio Spadaro, SJ vào tháng 8 năm 2013. Bản văn có tại: http://www.vatican.va/holy_father/francesco/speeches/2013/ september/documents/papa-francesco_ 20130921_intervista-spadaro_ en.html.

(4) “Tôn giáo của linh hồn cũng như sự phát triển của thể xác. Điều sau khai mở và mở rộng các tỷ lệ của chúng theo năm tháng nhưng vẫn giữ nguyên” (Vincent de Lérins, Tradition et progrès. Le Commonitorium [Truyền thống và tiến bộ. Khảo luận Commonitorum]. [Paris: Desclée de Brouwer, 1978], XXIII, 76). Cũng nên xem John Henry Newman, An Essay on the Development of Christian Doctrine [Tiều luận về việc phát triển tín lý Kitô giáo] (South Bend, IN: University of Notre Dame Press, 1989).

(5) Xem Marc Ouellet, Divine Likeness: Toward a Trinitarian Anthropology of the Family [Họa ảnh Thiên Chúa: Hướng tới một nền nhân học Ba Ngôi về Gia đình], bản dịch của Philip Milligan và Linda M. Cicone (Grand Rapids, MI: Eerdmans, 2006); Mistero e Sacramento dell'amore. Teologia del matrimonio e della famiglia nella Missione della Chiesa [Mầu nhiệm và Bí tích Tình yêu. Thần học hôn nhân và gia đình trong sứ mạng của Giáo Hội] (Rome: Lateran University Press, 2007); và La vocazione cristiana al matrimonio e alla famiglia nella Missione della Chiesa [Ơn gọi hôn nhân và gia đình của người Kitô hữu trong sứ mệnh của Giáo hội] (Rome: Lateran University Press, 2005). Cũng nên xem Alain Mattheeuws, Les “dons” du mariage: Recherche de théologie Morale et Sacramentelle [các “ơn phúc” của hôn nhân: Tìm một nền thần học luân lý và bí tích] (Brussels: Culture et Vérité, 1996); Giorgio Mazzanti, I Sacramenti, simbolo e teologia [Các bí tích, biểu tượng và thần học], tập. 1, dẫn nhập chung (Bologna: EDB, 1997); Carlo Rochetta, Il Sacramento della coppia [Bí tích của cặp đôi] (Bologna: EDB, 1996); Dionigi Tettamanzi, “La famiglia nel mistero della Chiesa. Fecondità teologico-pastorale di Familiaris consortio trent’anni dopo,” [Gia đình trong mầu nhiệm Giáo Hội. Thành quả thần học-mục vụ của Familiaris consortio ba mươi năm sau] La rivista del clero Italiano 12 (2010): 822tt.

(6) Công đồng Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Thánh, Sacrosanctum concilium (từ đây gọi là SC), 2.

(7) Xem G. Bornkamm, “Mysterion,” [mầu nhiệm] trong Grande Lessico del Nuovo Testamento [Từ điển vĩ đại về Tân Ước], tập. 7 (Brescia: Paideia, 1971); Carlo Rochetta, Sacramentaria fondamentale. Dal “Mysterion” al “Sacramentum” [Bí tích cơ bản. Từ “Mầu Nhiệm” đến “Bí Tích”] (Bologna: EDB, 1989); Louis Bouyer, Mysterion. Dal mistero alla mistica [Mầu nhiệm. Từ mầu nhiệm đến huyền nhiệm] (Vatican City: Libreria Editrice Vaticana, 1998).

(8) SC, 2.

(9) Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1. 1617 (xem DS 1800; CIC, điều 1055, §2).

(10) Xem Mt 9:15; Mc 2:19–20; Lc 5:34–35; và Ga 3:29, cũng như 2 Cr 11:2; Eph 5:27; Kh 19:7–8, 21:2, 9.

(11) GS, 48.

(12). Như trên.

(13) Xem Lumen gentium, 11; Sắc lệnh về việc tông đồ giáo dân Apostolicam Actuositatem, 11. Cụm từ này có nguồn gốc từ Thánh Augustinô và Thánh Gioan Kim khẩu: “... cum tota Domestica vestra ecclesia” [với tất cả giáo hội tại gia của bạn] (Augustine, De bono viduitatis liber [Một cuốn sách về điều tốt đẹp của người góa bụa], PL 40, cap. 29, col. 450); “Domum enim vestram, non parvam Christi Ecclesiam deputamus” [Vì chúng tôi ủy thác [?] ngôi nhà của bạn, không phải một nhà thờ nhỏ của Chúa Kitô] (Epistola 188, cap. 3, PL 33, col. 849); “Ecclesián poiesón sou tén oíkian” (John Chrysostom, In Genesim sermo VI, cap. 2, PG 54, col. 607).

(14) Xem Ouellet, Divine Likeness [Họa ảnh Thiên Chúa], 39–41.

(15) Đức Piô XI khẳng định rằng vợ chồng “được củng cố và như được thánh hiến” (Casti connubii, I, 3). Khẳng định này lại được nhắc lại ở GS, 48; Gioan Phaolô II, FC, 56; và cũng ở đó, Vita consecrata [đời sống thánh hiến], 62.

(16) FC, 13; xem GS, 48

(17) Xem Mt 19:9; Mc 10:11–12; Lc 16–18; 1 Cr 7:10–11, 39.

(18) Xem FC, 84; Bênêđíctô XVI, Sacramentum caritatis, 27–29.

(19) Ở đây tôi tự giới hạn vào việc xác định lĩnh vực có thể có ngoại lệ. Cần thực hiện nhiều việc hơn nữa để đưa ra các thí dụ, xác định các tiêu chuẩn và thủ tục cũng như xác định các điều kiện và trách nhiệm đối với các quyết định mục vụ mà những quyết định này hàm ý. Như đã rõ ràng từ tuyên bố cuối cùng này, việc xác định lĩnh vực này trong mọi trường hợp không tương đương với việc chuyển giải pháp cho những trường hợp như vậy sang “tòa riêng”.

(20) Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Tòa Thượng thẩm Rôma (30 tháng 1 năm 2003).

(21) Đức Bênêđictô XVI, Diễn văn tại Tòa Thượng thẩm Rôma (26 tháng 1 năm 2013).

(22) Như trên.

(23) FC, 13.