Bài của Nicholas J. Healy, Jr

“Những vết thương sâu nhất trong nền văn hóa

của chúng ta bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng đức tin”.


Trong cuộc phỏng vấn của ngài với Cha Antonio Spadaro vào tháng 8 năm ngoái, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tóm tắt tầm nhìn của ngài đối với Giáo hội bằng một hình ảnh đáng nhớ:

vốn “Điều Giáo hội cần nhất hiện nay là khả năng chữa lành các vết thương. Tôi coi Giáo hội như một bệnh viện dã chiến sau trận đánh. Sẽ vô ích nếu hỏi một người bị thương nặng xem anh ta có lượng cholesterol cao và lượng đường trong máu hay không. Bạn phải chữa lành vết thương của anh ấy. Sau đó chúng ta có thể nói về mọi thứ khác. Chữa lành vết thương. Chữa lành vết thương.” (1)

Trong số những vết thương đau đớn và nghiêm trọng nhất của thời đại chúng ta là sự tan vỡ phổ biến của các cuộc hôn nhân. Vết thương này vừa là một bi kịch của con người – một nguồn đau khổ sâu xa cho các cặp vợ chồng và đặc biệt cho con cái họ – và, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô lập luận, là một “cuộc khủng hoảng văn hóa sâu xa... bởi vì gia đình là tế bào căn bản trong xã hội.” (2) Trong Giáo hội, sự tan vỡ của hôn nhân tượng trưng cho một cuộc khủng hoảng đức tin vào nhiệm cục bí tích. Bí tích hôn nhân là điểm tiếp xúc đặc biệt giữa trật tự tự nhiên và ơn phúc ân sủng mới. Hôn nhân là một biểu tượng thực sự về lòng chung thủy và lòng thương xót của Thiên Chúa trong tình yêu giao ước của Người đối với tạo vật. Trong cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Con Nhập Thể, lòng trung thành này chạm tới cội rễ sâu xa nhất của bản nhiên và – thông qua Giáo hội và các bí tích của Giáo hội – chữa lành và nâng cao bản nhiên đến mức cho phép bản nhiên chia sẻ sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. (3)

Toàn bộ tình hình trở nên phức tạp hơn do sự kiện nhiều người, nếu không nói là hầu hết, trong số những người mà cuộc hôn nhân của họ dường như đã thất bại, đã ly hôn dân sự và đã bước vào những cuộc kết hợp dân sự mới. Ở đây chúng ta tiếp cận một trong những câu hỏi khó vốn là trọng tâm của Thượng Hội đồng sắp tới về gia đình. Làm thế nào Giáo hội có thể cung cấp dịch vụ chăm sóc mục vụ cho người Công Giáo trong hoàn cảnh này? Giáo hội có thể giúp chữa lành vết thương bằng cách nào? Vì những lý do mà tôi hy vọng sẽ làm sáng tỏ trong suốt tiểu luận này, một đề nghị xuất hiện trong thần học Công Giáo vào đầu những năm 1970 đã thu hút được sự chú ý mới. Đề nghị, vốn nói lên việc xa rời giáo huấn và thực hành Công Giáo, đó là những người Công Giáo đã ly dị và tái hôn dân sự nên được phép rước lễ – không phải như một “quy tắc chung” mà trong những trường hợp cụ thể.

Hiển nhiên, có nhiều chiều kích cho vấn đề này: Hôn nhân là gì, vừa là một định chế tự nhiên vừa là một bí tích của luật mới? Tính bất khả tiêu của hôn nhân có nghĩa là gì và nền tảng của tính bất khả tiêu là gì? Ý nghĩa của ngoại tình là gì và tại sao hôn nhân là bối cảnh hợp pháp duy nhất cho quan hệ vợ chồng? Đâu là mối liên hệ giữa hôn nhân và Bí tích Thánh Thể, “nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu?” (4) Việc đón nhận hồng phúc tối cao này của Thiên Chúa một cách xứng đáng có nghĩa gì? Cuối cùng, ý nghĩa của lòng thương xót là gì và mối liên hệ giữa lòng thương xót và tội lỗi là gì?

Lưu ý các khía cạnh khác nhau này, mục đích của tôi trong phần tiếp theo trước tiên là cung cấp một số bối cảnh cho cuộc tranh luận hiện nay bằng cách nhắc lại lịch sử gần đây của vấn đề này trong thần học Công Giáo. Đề nghị được Đức Hồng Y Walter Kasper đưa ra gần đây không phải là mới; các nhà thần học cũng như văn phòng giảng dạy của Giáo hội đã suy nghĩ và viết về ý nghĩa của đề nghị này trong ít nhất bốn mươi năm.

Sau khi trình bày một số lịch sử này, phần hai của bài viết của tôi sẽ tóm tắt những lập luận của ĐHY Kasper về vấn đề tái hôn dân sự và các bí tích như được nêu trong bài giảng của ngài trước Công nghị bất thường vào ngày 20 tháng 2 năm 2014. (5) Trong phần mở đầu cho bản văn đã xuất bản, Đức Hồng Y Kasper nói rằng ngài hy vọng bài thuyết trình của mình sẽ “nẩy sinh các câu hỏi” và khơi dậy cuộc thảo luận. Theo đó, trong phần thứ ba của bài viết, tôi sẽ phác thảo ba bộ câu hỏi, hoặc ba lĩnh vực mà dường như cần có sự suy gẫm và biện phân nhiều hơn. Trên hết, tôi hy vọng khám phá được mối liên hệ, phần nào bị che khuất trong đề nghị của Đức Hồng Y Kasper, giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và hồng phúc bất khả tiêu.

Phần 1. Mục vụ chăm sóc dành cho người ly dị và tái hôn dân sự—lịch sử gần đây của vấn đề

Tài liệu về chủ đề này rộng lớn một cách đáng ngạc nhiên và mở rộng nhanh chóng. (6) Mục đích của tôi ở đây chỉ đơn giản là lưu ý một số lập luận quan trọng đã xuất hiện vào đầu những năm 1970 và tóm tắt phản ứng của văn phòng giảng dạy của Giáo hội. Một nơi tốt để bắt đầu là việc can thiệp của Đức Tổng Giám Mục Elias Zoghby trong phiên họp thứ tư của Công đồng Vatican II. (7) Vị đại diện của thượng phụ nghi lễ Melkites ở Ai Cập đã khẩn khoản yêu cầu nên xem xét đặc biệt những người phối ngẫu bị bỏ rơi, và ngài đề nghị nên xem xét tập tục phương Đông về việc chấp nhận việc tái hôn trong một số trường hợp nào đó. Nhận định của ĐTGM Zoghby đã gây ra phản ứng tiêu cực mạnh mẽ tại Công đồng, (8) nhưng chúng nhanh chóng trở thành điểm tham chiếu cho ngày càng nhiều bài báo và sách nhằm xem xét lại và duyệt lại giáo lý và thực hành của Giáo hội về ly dị và tái hôn. (9)

Những gì bắt đầu vào cuối những năm 1960 khi một lượng xuất bản ổn định đã trở thành một cơn lũ thực sự vào khoảng năm 1972. Đây là năm một ủy ban nghiên cứu do Hiệp hội Thần học Công Giáo Hoa Kỳ ủy quyền đã ban hành một “Tuyên bố Mục vụ Tạm thời” về “Vấn đề cuộc hôn nhân thứ hai.” (10) Ngoài việc lập luận rằng không nên loại trừ những người Công Giáo tái hôn dân sự khỏi các bí tích, các tác giả của nghiên cứu này còn khuyến khích các nhà thần học Công Giáo suy nghĩ lại và xem xét lại ý nghĩa của sự hoàn hợp và ý nghĩa của tính bất khả tiêu. Trong vòng hai năm tới, khoảng sáu cuốn sách và rất nhiều bài báo sẽ được xuất bản chỉ riêng ở Hoa Kỳ dành riêng cho vấn đề ly dị và tái hôn. (11) Các nhà chú giải, luật sư giáo luật và các nhà thần học luân lý đã tiếp cận vấn đề này từ nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng vẫn có một chủ đề chung: mỗi cuốn sách này (và hầu hết tất cả các bài viết này) đều ủng hộ một sự thay đổi trong thực hành của Giáo hội để cho phép những người Công Giáo tái hôn dân sự được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể.

Một cuộc thảo luận tương tự đã diễn ra ở châu Âu. Ở Đức, cuốn sách Ehe und Ehescheidung: Diskussion unter Christen [Hôn nhân và Ly hôn: Một cuộc thảo luận giữa các Kitô hữu], cũng được xuất bản năm 1972, bao gồm các tiểu luận quan trọng của các nhà chú giải và thần học hàng đầu như Schnackenburg, Ratzinger, Lehmann và Böckle. (12) Một lần nữa, mỗi tác giả này lập luận về sự khoan dung mục vụ sẽ cho phép, trong những điều kiện hạn chế nhất định, những người Công Giáo tái hôn được nhận Bí tích Thánh Thể. Tôi sẽ nói thêm về tiểu luận năm 1972 của Ratzinger dưới đây.

Tại Pháp vào năm 1970, hiệp hội các nhà thần học luân lý đã dành cuộc họp thường niên của họ cho chủ đề ly hôn và tính bất khả tiêu của hôn nhân. (13) Và tạp chí Recherches de Science Religieuse [nghiên cứu khoa học tôn giáo] đã dành toàn bộ số báo cho chủ đề này vào năm 1973 và năm 1974, một lần nữa ủng hộ một quan điểm mới về thực hành mục vụ. (14)

Khảo sát tài liệu này từ đầu những năm 1970, có thể nhận thấy sự phát triển của ba lập luận căn bản ủng hộ sự thay đổi trong giáo huấn và thực hành của Giáo hội liên quan đến ly hôn và tái hôn.

Lập luận đầu tiên, vốn là đường lối của Bernard Häring, Edward Schillebeeckx, Charles Curran, Richard Mc-Cormick, và Theodore Mackin (trong vô số những người khác), được đặt tiền đề trên việc tái xác định triệt để hoặc từ bỏ tính bất khả tiêu. Cách tiếp cận ly hôn và tái hôn này đã được Schillebeeckx phác thảo trong một bài báo có ảnh hưởng lớn có tựa đề “Hôn nhân Kitô giáo và thực tại tan vỡ hôn nhân hoàn toàn”, công bố năm 1970. Schillebeeckx viết:

Tính bất khả tiêu không có nghĩa là cuộc hôn nhân đầu tiên tiếp tục tồn tại như một điều cấm kỵ đối với cuộc hôn nhân thứ hai. Một sự cấm đoán như vậy sẽ khiến tính bất khả tiêu không còn ý nghĩa thực sự nào nữa; vì, nói một cách thực tế, nó không nói gì tới cuộc hôn nhân đầu tiên đang bàn. Nếu cuộc hôn nhân đó thực sự đã tan vỡ hoàn toàn, thì nói theo cách con người, không còn hôn nhân nào nữa; không còn điều gì để có thể áp dụng “tính bất khả tiêu” hay “tính khả tiêu” vào nữa. (15) Điều đáng lưu ý là những người đề xướng lập trường này thường viện dẫn (một cách sai lầm, theo quan điểm của tôi) thần học hôn nhân được nêu ra trong Gaudium et spes. Lập luận, trong những nét chủ yếu của nó, diễn ra như thế này: Gaudium et spes đã định nghĩa lại hôn nhân theo những thuật ngữ mang tính bản vị như một “sự hiệp thông mật thiết của sự sống và tình yêu” (“intima communitas vitae et amoris coniugalis”). (16) Trong khi trước Công đồng Vatican II, hôn nhân được quan niệm nhiều hơn như một “khế ước”, theo đó mỗi bên trao và chấp nhận một quyền vĩnh viễn và độc chiếm đối với thân xác trong các hành vi vợ chồng, Gaudium et spes nói đến hôn nhân như một “giao ước” của sự sống và tình yêu được hình thành bởi việc vợ chồng cho đi và nhận lại chính mình. Tóm lại, Giáo hội hiện nay dạy rằng tình yêu thuộc về yếu tính của hôn nhân. Do đó, khi tình yêu chết đi hoặc không còn hiện hữu, thì chính hôn nhân cũng không còn hiện hữu. (17) Theodore Mackin rút ra hậu quả cuối cùng của cách tiếp cận mới này đối với hôn nhân Kitô giáo khi ông viết: “Tôi khuyên nên bỏ các từ 'bất khả tiêu’ và 'tính bất khả tiêu. Dựa trên các cuộc hôn nhân bí tích, chúng gợi ý trong nhiều thế kỷ rằng những cuộc hôn nhân này có một phẩm chất, một tính chất không thể phá hủy, vượt trên ý chí của vợ chồng.” (18)

Lập luận thứ hai ủng hộ việc cho phép những người Công Giáo ly dị và tái hôn dân sự được rước lễ đã được Joseph Ratzinger và Karl Lehmann đưa ra trong một loạt bài viết ở Đức. (19) Walter Kasper đã thêm tiếng nói ủng hộ của mình trong một cuốn sách về thần học hôn nhân Kitô giáo xuất bản năm 1977. (20) Không giống như đề xuất nêu trên, các nhà thần học người Đức này đều khẳng định tính bất khả tiêu của hôn nhân bí tích. Thay vì đặt câu hỏi về sự hiện hữu liên tục của dây hôn phối, Ratzinger, Lehmann và Kasper đã nại đến một số đoạn trong các Giáo phụ dường như cho phép sự khoan dung trong những tình huống khẩn cấp. Họ cũng gợi ý rằng Giáo hội có thể học được điều gì đó từ việc thực hành oikonomia [kế hoạch Thiên Chúa] của Chính thống giáo trong những hoàn cảnh khó khăn trong hôn nhân, và về vấn đề này, họ lưu ý rằng Công đồng Trent đã cẩn thận không lên án quan điểm của Chính thống giáo. Họ lập luận rằng những đặc điểm này của truyền thống gợi ý rằng một cách tiếp cận mới có thể khả hữu trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Các điều kiện sau đây sẽ phải được đáp ứng. Đầu tiên, cá nhân phải sẵn sàng dấn thân vào con đường sám hối đòi hỏi sự ăn năn về bất cứ tội lỗi nào phát sinh do sự thất bại của cuộc hôn nhân đầu tiên. Thứ hai, phải chứng minh rằng cuộc hôn nhân đầu tiên đã đổ vỡ không thể hàn gắn được đối với cả hai bên. Thứ ba, cuộc hôn nhân theo hợp đồng dân sự thứ hai phải đứng vững qua thử thách của thời gian. Khi các nghĩa vụ đạo đức nảy sinh từ sự kết hợp thứ hai này (cụ thể là con cái), và khi việc tiết dục dường như không phải là một khả thể thực sự theo trật tự thực tế, thì khi đó, và chỉ khi đó, Giáo hội mới có thể và thực sự chính đáng nhân nhượng cho phép những người này được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. (21)

Dòng lập luận thứ ba, mà tôi không có chỗ để trình bày chi tiết, đã tìm cách giải quyết vấn đề nan giải bằng cách nại tới tòa trong. (22) Giải pháp này có thể có nhiều hình thức khác nhau. Một số tác giả đề nghị rằng một cá nhân—xác tín về tính vô hiệu của cuộc hôn nhân đầu tiên của họ, nhưng không thể chứng minh điều này ở tòa ngoài—có thể bước vào một cuộc hôn nhân mới một cách hợp pháp. Các tác giả khác thừa nhận sự hiện hữu lâu dài của cuộc hôn nhân trước, nhưng cho rằng tòa trong mở ra một con đường cho một người Công Giáo tái hôn dân sự ăn năn những lỗi lầm trong quá khứ và lãnh nhận bí tích trong tinh thần sám hối.

Vì sự sôi động trong thần học Công Giáo và số lượng bùng nổ người Công Giáo ly hôn dân sự và sau đó bước vào những cuộc hôn nhân mới, điều tự nhiên là chủ đề này sẽ được thảo luận trong suốt cuộc họp của Thượng Hội đồng về Gia đình năm 1980. Trong những tháng trước Thượng Hội đồng, một số giám mục đã kêu gọi sự chú ý đến tính cấp bách của vấn đề mục vụ này. (23) Trong bài phát biểu khai mạc tại Thượng hội đồng, Đức Hồng Y Ratzinger (lúc này vẫn là Tổng Giám mục của Munich-Freising) đã nói: “vấn đề của những người ly dị và tái hôn, những người thực sự trung thành và mong muốn tham gia vào đời sống của Giáo hội, là một trong những mối quan tâm mục vụ khó khăn nhất ở nhiều nơi trên thế giới. Tùy thuộc vào Thượng Hội đồng việc chỉ ra cách tiếp cận đúng đắn cho các mục tử trong vấn đề này.” (24) Các nghị quyết được Thượng Hội đồng thông qua, được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II xác nhận và đào sâu trong Tông huấn Familiaris consortio (=FC), đã hoàn thành sự mong đợi này. Dưới tiêu đề “Chăm sóc mục vụ cho các gia đình có hoàn cảnh khó khăn”, Đức Gioan Phaolô II dành trọn một phần cho những người Công Giáo ly dị và tái hôn dân sự. Sau khi mô tả việc tái hôn dân sự là “một sự ác... đang ngày càng ảnh hưởng đến nhiều người Công Giáo,” Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng Giáo hội không bỏ rơi những cá nhân này và “do đó sẽ thực hiện những nỗ lực không mệt mỏi để cung cấp cho họ những phương tiện cứu rỗi của mình.” (25) Ngài viết:

“Cùng với Thượng Hội đồng, tôi tha thiết kêu gọi các mục tử và toàn thể cộng đồng tín hữu hãy giúp đỡ những người ly dị, và với sự quan tâm ân cần để bảo đảm rằng họ không coi mình như bị tách rời khỏi Giáo hội... Họ nên được khuyến khích lắng nghe Lời Chúa, tham dự thánh lễ, kiên trì cầu nguyện... Giáo hội hãy cầu nguyện cho họ, khuyến khích họ và biểu lộ mình là một người mẹ nhân hậu...

Tuy nhiên, Giáo hội tái khẳng định thực hành của mình, vốn dựa trên Kinh thánh, về việc không cho phép những người ly dị tái hôn được rước lễ. Họ không thể được chấp nhận vì thực tế là tình trạng và điều kiện sống của họ mâu thuẫn một cách khách quan với sự kết hợp tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo hội được biểu thị và thực hiện bởi Bí tích Thánh Thể. Ngoài ra, còn có một lý do mục vụ đặc biệt khác: nếu những người này được nhận Bí tích Thánh Thể, các tín hữu sẽ bị dẫn đến sai lầm và nhầm lẫn về giáo huấn của Giáo hội về tính bất khả tiêu của hôn nhân.

Sự hòa giải trong bí tích Sám Hối, mở đường cho Bí tích Thánh Thể, chỉ có thể được ban cho những ai ăn năn vì đã vi phạm dấu giao ước và lòng trung thành với Chúa Kitô, thành thật sẵn sàng thực hiện một lối sống không còn mâu thuẫn với tính bất khả tiêu của hôn nhân. Trên thực tế, điều này có nghĩa là khi, vì những lý do nghiêm trọng, chẳng hạn như vì lý do giáo dục con cái, một người đàn ông và một người đàn bà không thể thực hiện nghĩa vụ ly thân, thì họ ‘tự nhận lấy nghĩa vụ sống tiết dục hoàn toàn, nghĩa là bằng cách tiết chế hoàn toàn những hành vi riêng của cặp vợ chồng.’” (26)

Sau khi công bố tông huấn Familiaris consortio, cuộc thảo luận giữa các nhà thần học tiếp tục với việc tạo hình ảnh hấp dẫn hơn cho nhiều lập luận cũ (đặc biệt là việc nại tới tòa trong). (27) Diễn biến quan trọng tiếp theo xảy ra vào tháng 7 năm 1993, khi ba giám mục nổi tiếng người Đức (Oskar Saier, Walter Kasper, và Karl Lehmann) công bố một lá thư về việc chăm sóc mục vụ cho người ly dị và tái hôn. (28) Nhắc đến giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II trong Familiaris consortio như một quy tắc chung, mặc dù đúng, nhưng không thể qui định tất cả các trường hợp cá thể rất phức tạp, nên các giám mục từ vùng Thượng Sông Rhine (Upper Rhineland) này đã đề nghị một bộ tiêu chuẩn có thể cho phép các cá nhân (do một mục tử hướng dẫn) tự quyết định xem họ có nên đến gần bàn tiệc của Chúa hay không. Cùng những điều kiện đã nêu trên đây cũng đã được nêu rõ: phải ăn năn về sự thất bại của cuộc hôn nhân đầu tiên; cuộc hôn nhân dân sự phải chứng tỏ là ổn định theo thời gian; những cam kết trong cuộc hôn nhân thứ hai phải được chấp nhận, v.v. Với những điều kiện này, những người tái hôn dân sự có thể nhận Bí tích Thánh Thể với lương tâm tốt mà không cần phải cam kết sống tiết dục. Bức thư này nhanh chóng được dịch và xuất bản bằng tiếng Pháp và tiếng Anh, và nó đã thu hút được sự chú ý đáng kể của báo chí.

Bộ Giáo lý Đức tin đã trả lời vào năm 1994 bằng một tài liệu có tựa đề “Thư gửi các Giám mục của Giáo Hội Công Giáo về việc Rước lễ của các Tín hữu đã ly hôn và tái hôn”. (29) Trưng dẫn cả Familiaris consortio lẫn Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo mới được công bố gần đây, lá thư này xác nhận rằng giáo lý và thực hành của Giáo hội ngăn cấm những người Công Giáo tái hôn dân sự được rước lễ vì điều kiện sống của họ mâu thuẫn một cách khách quan với sự kết hợp tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Bức thư mục vụ của các giám mục Đức không được đề cập đến, nhưng rõ ràng là sáng kiến của họ đã làm dịp cho bức thư năm 1994. Tôi sẽ không trích dẫn tất cả các đoạn có liên quan từ tài liệu này. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là lá thư đặc biệt đề cập đến quan niệm sai lầm về lương tâm, theo đó một cá nhân có thể tự mình xác định giá trị thành sự của cuộc hôn nhân trước hoặc sự phù hợp của việc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể khi tái hôn dân sự. Bộ Giáo lý Đức tin cũng trình bày chi tiết về phạm vi giảng dạy của Familiaris consortio. Theo lời của Đức Gioan Phaolô II, thực hành thường xuyên và phổ quát của Giáo hội trong vấn đề này đã “được đặt nền tảng trên Kinh Thánh”. Bức thư năm 1994 của Bộ Giáo lý Đức tin bình luận: “Cấu trúc của tông huấn và giọng điệu của lời lẽ trong đó cho thấy rõ ràng rằng thực hành này, được trình bày như một sự ràng buộc, không thể được sửa đổi vì những hoàn cảnh khác nhau.” (30) Đọc lại các trước tác bàn về vấn đề này được xuất bản sau năm 1994 cho thấy rằng, phần lớn, con đường do Đức Gioan Phaolô II đề xuất, tức con đường đòi hỏi việc chăm sóc mục vụ phải được làm phong phú bằng sự hiểu biết sâu xa hơn về ý nghĩa của việc cầu nguyện và giá trị của việc tham dự lễ hy sinh của Chúa Kitô ở tâm điểm phụng vụ Giáo hội, cũng như sự hiểu biết sâu xa hơn về ơn kêu gọi Kitô hữu sống khiết tịnh nhờ ân sủng, đã không được tuân theo. (31) Vì vậy, vấn đề này đã được thảo luận và tranh luận một lần nữa trong Thượng Hội đồng về Bí tích Thánh Thể năm 2005. Tông huấn Sacramentum caritatis [bí tích đức ái] (2007) của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô một lần nữa khẳng định giáo lý và thực hành của Giáo hội dựa trên Kinh thánh. Trong tài liệu này, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI kêu gọi một sự hiểu biết thần học sâu xa hơn về mối quan hệ giữa hôn nhân và Bí tích Thánh Thể cũng như những nỗ lực mục vụ mới nhằm giúp đỡ những người trẻ đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích hôn nhân.

Điều này đưa chúng ta đến bước cuối cùng trong hành trình của mình. Vào ngày 28 tháng 7 năm 2013, trong chuyến bay trở về sau Ngày Giới trẻ Thế giới ở Ba Tây, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã được hỏi câu hỏi sau:

“Thưa Đức Thánh Cha, trong chuyến viếng thăm này, ngài cũng thường xuyên nói về lòng thương xót. Về việc lãnh nhận các bí tích của người ly dị và tái hôn, liệu kỷ luật của Giáo hội có thể thay đổi được không? Những bí tích này có thể là một cơ hội để đưa những người này đến gần nhau hơn, thay vì là rào cản ngăn cách họ với những tín hữu khác? (32)

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trả lời câu hỏi bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng thương xót – Giáo hội là một người mẹ và Giáo hội phải chữa lành những người đang bị tổn thương. Thứ hai, ngài đề cập đến (không bình luận) việc Chính thống giáo có một thực hành khác mà họ gọi là oikonomia, có nghĩa là “họ cho cơ hội thứ hai.” (33) Sau đó, ngài nói rằng vấn đề này cần được nghiên cứu sâu hơn trong bối cảnh mục vụ hôn nhân và ngài đã chuyển vấn đề này tới Thượng Hội đồng sắp tới về hôn nhân và gia đình.

Để giúp chuẩn bị cho Thượng Hội đồng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã yêu cầu Đức Hồng Y Walter Kasper trình bày một bài giảng về những thách thức mục vụ đối với gia đình tại Công nghị bất thường diễn ra ở Rome vào ngày 20-21 tháng 2 năm 2014.

Phần 2: Đề nghị của Đức Hồng Y Kasper

ĐHY Kasper cho hay mục đích của bài thuyết giảng là cung cấp một nền tảng thần học cho cuộc thảo luận tại Công nghị nhằm chuẩn bị cho các Thượng Hội đồng sắp tới vào tháng 10 năm 2014 và tháng 10 năm 2015. Bài thuyết giảng có tựa đề Tin Mừng Gia đình, được chia thành năm phần: 1. Gia đình trong trật tự sáng tạo; 2. Cơ cấu tội lỗi trong đời sống gia đình; 3. Gia đình trong Trật tự Cứu rỗi Kitô giáo; 4. Gia đình là Giáo hội tại gia; 5. Về vấn đề ly hôn và tái hôn. Mặc dù có nhiều điều đúng và quan trọng trong bốn phần đầu tiên, hầu hết sự chú ý đều tập trung vào đề nghị – được phác thảo ở phần năm – nhằm thay đổi cách thực hành của Giáo hội bằng cách cho phép (trong những trường hợp đặc thù) những người Công Giáo tái hôn dân sự được rước lễ. (34)

Lưu ý đến những khai triển từ Bộ Giáo luật năm 1917, vốn đe dọa vạ tuyệt thông đối với những người tái hôn dân sự, thông qua Familiaris consortio Sacramentum caritatis, ĐHY Kasper hỏi liệu có thể phát triển thêm được hay không. Câu trả lời của ngài là “có” với điều kiện, không phải là một giải pháp chung cho mọi trường hợp, nhưng trong những điều kiện hạn chế và trong những hoàn cảnh đặc thù. Ngài tiến hành việc phác thảo hai tình huống nhằm gợi ý hai giải pháp riêng biệt cho vấn đề. Tôi sẽ gọi chúng là Kế hoạch A và Kế hoạch B.

Tóm lại, Kế hoạch A sẽ liên quan đến việc mở rộng diễn trình tuyên bố vô hiệu. Giáo hội có thể mở rộng hoặc đơn giản hóa diễn trình tuyên bố vô hiệu ra sao? Có hai khía cạnh chính trong đề nghị của ĐHY Kasper:

Thứ nhất, năng quyền hoặc thẩm quyền tuyên bố một cuộc kết hôn vô hiệu có thể được cấp cho một linh mục được chỉ định trong mỗi giáo phận. Nên lưu ý rằng ĐHY Kasper không chỉ đề nghị một cuộc cải cách các thủ tục pháp lý, mà còn là một sự chuyển đổi từ trật tự pháp lý sang “các thủ tục mục vụ và tâm linh.” (35)

Thứ hai, ĐHY Kasper dường như gợi ý rằng Giáo hội nên thừa nhận một trở ngại mới làm cho hôn nhân không thành sự: sự thiếu vắng đức tin bản thân. Ngài viết,

“Thực vậy, nhiều mục tử tin chắc rằng nhiều cuộc hôn nhân, được ký kết dưới hình thức giáo hội, không được ký kết thành sự. Vì với tư cách là một bí tích của đức tin, hôn nhân bao hàm đức tin và sự nhất trí với những đặc tính thiết yếu của hôn nhân – tính đơn hôn và bất khả tiêu. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, liệu chúng ta có thể giả định rằng cặp đính hôn chia sẻ niềm tin vào mầu nhiệm được biểu thị bởi bí tích hay không?” (36)

Hoạt động song song với nhau, hai yếu tố này thực sự có thể đơn giản hóa một cách triệt để và mở rộng diễn trình tuyên bố vô hiệu. Một cá nhân đang trong một cuộc hôn nhân rắc rối có thể thông báo với vị linh mục được chỉ định rằng vào thời điểm làm lễ cưới, người đó không thực sự tin vào mầu nhiệm Chúa Kitô. Linh mục có thể tuyên bố hôn nhân không thành sự và vô hiệu. ĐHY Kasper bày tỏ sự dè dặt đối với đề nghị của chính mình (Kế hoạch A). Ngài viết: “Sẽ là sai lầm nếu tìm kiếm giải pháp cho vấn đề này bằng việc mở rộng một cách quảng đại diễn trình tuyên bố vô hiệu. Do đó, ấn tượng tai hại sẽ được tạo ra rằng Giáo hội đang tiến hành một cách không trung thực bằng cách chấp nhận những gì, trên thực tế, là ly hôn.” (37) Vì vậy, ngài tiến hành phác thảo một kịch bản thứ hai, Kế hoạch B. Tình huống này liên quan đến một cuộc hôn nhân bí tích thành sự và hoàn hợp. Cuộc hôn nhân thất bại và một hoặc cả hai bên đã ký kết cuộc hôn nhân dân sự thứ hai. Tình huống này còn được bổ túc thêm theo hai nghĩa. Đầu tiên, cuộc hôn nhân bí tích trước đó được coi là “đã tan vỡ không thể hàn gắn”. (38) Tình huống giả định này đạt được vị thế một luật sắt đối với ĐHY Kasper; cuộc hôn nhân đầu tiên không thể được hàn gắn và hồi phục. Ngài viết, “Một sự trở lại nhất định nằm ngoài vấn đề.” (39) Thứ hai, có những nghĩa vụ mới trong cuộc hôn nhân thứ hai, đó là con cái. Theo đó, vợ chồng tái hôn dân sự có nghĩa vụ chung sống với nhau để nuôi dưỡng con cái. Hai lần, Đức Hồng Y Kasper nại tới lợi ích của con cái. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng ngài không đề cập đến những đứa con sinh ra từ cuộc hôn nhân đầu tiên và ảnh hưởng của việc ly hôn đối với những đứa con này.

Có thể làm gì trong cách thức chăm sóc mục vụ trong viễn cảnh này? Ở điểm này, ĐHY Kasper nhắc lại đề nghị mà ngài đã vạch ra vào năm 1977: “Sau vụ đắm tàu vì tội lỗi, không phải con tàu thứ hai mà là một tấm ván cứu sinh nên được cung cấp cho người chết đuối.” (40) Nếu một người thực sự hối tiếc vì thất bại của cuộc hôn nhân đầu tiên và sẵn sàng đi theo con đường sám hối, nếu một người không thể hủy bỏ những cam kết đã được đảm nhận trong cuộc hôn nhân dân sự thứ hai mà không mắc tội mới, nếu người đó khao khát các bí tích như một nguồn sức mạnh, thì làm sao Giáo hội có thể loại một người như vậy ra khỏi các bí tích? Ngài viết: “Chúng ta phải nghiêm túc tự hỏi liệu chúng ta có thực sự tin vào sự tha tội hay không... liệu chúng ta có thực sự tin rằng một người đã phạm sai lầm, hối hận và không thể sửa chữa lỗi lầm đó mà không mắc phải tội lỗi mới, nhưng làm mọi điều có thể cho người đó, có thể nhận được sự tha thứ từ Thiên Chúa hay không, và liệu chúng ta có thể từ chối giải tội cho người đó hay không?” (41)

ĐHY Kasper lưu ý rằng Giáo hội đã dạy rằng những cá nhân này có thể được “rước lễ thiêng liêng”. Ngài lập luận rằng người rước lễ thiêng liêng là người hiệp nhất với Chúa Giêsu Kitô. Vậy thì tại sao người đó lại không thể rước lễ bí tích? Nói tóm lại, khước từ các bí tích Thống hối và Bí tích Thánh Thể sẽ là một chủ nghĩa khắc nghiệt phi Kitô giáo, nghi vấn cả lòng thương xót của Thiên Chúa.

Còn nữa