Bài của Đức Hồng Y MARC OUELLET
“Những cơ hội mới cho cách tiếp cận mục vụ dựa trên lòng thương xót phải diễn ra trong tính liên tục của truyền thống giáo lý của Giáo hội, vốn là biểu hiện của lòng thương xót Thiên Chúa”.
Dẫn Nhập
Thượng Hội đồng Giám mục Ngoại thường sắp tới về chủ đề gia đình đang khơi dậy sự quan tâm chưa từng có trong Giáo hội do tính cấp bách và nghiêm trọng của các vấn đề mục vụ liên quan cũng như những hy vọng và mong đợi được bày tỏ để đáp lại các cuộc tham vấn chuẩn bị.
Ngay trong Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes đã đặt hôn nhân và gia đình lên hàng đầu trong những vấn đề cấp bách của thời đại chúng ta.(1) Kể từ khi công bố thông điệp Humanae Vitae, Thượng hội đồng 1980 về gia đình, và Đức Gioan Phaolô II về chủ đề này, (2) Giáo hội không ngừng theo dõi với mối quan tâm ngày càng tăng về sự tiến triển của các phong tục và tâm thức rời xa di sản được truyền lại bởi mạc khải Kinh thánh và truyền thống Kitô giáo.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã so sánh sứ mạng của Giáo hội trong thế giới đương thời với một “bệnh viện dã chiến” chữa trị cho nhiều người bị thương nằm rải rác trên chiến trường.(3) Hình ảnh này mô tả một cách hoàn hảo tình hình hôn nhân và gia đình, mà trong nhiều thập niên đã trải qua một suy thoái nghiêm trọng không những ở bình diện kinh nghiệm sống của các cặp vợ chồng mà còn ở luật pháp trái ngược với các giá trị truyền thống của gia đình, được thúc đẩy bởi các nhóm vận động hành lang ủng hộ não trạng duy tương đối đang thịnh hành.
Vào thời điểm hiện nay, hiện tượng sâu rộng này đi kèm với những hiện tượng khác: sự phức tạp của các hoàn cảnh hôn nhân, sự chậm chạp của các tiến trình pháp lý trong việc xem xét tính hợp lệ của các cuộc kết hợp, điển hình của truyền thống Chính thống, và sự lan rộng của các thực hành không chính thức do mối quan tâm mục vụ. Bên cạnh đó, còn có làn sóng hy vọng được khơi dậy nhờ lời rao giảng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Về phía các mục tử, sự kết hợp của những yếu tố này đòi hỏi sự suy tư và sáng kiến sáng tạo nhằm đáp ứng những thách thức mới của việc truyền giáo. Tôi chia sẻ niềm hy vọng và xác tín này, với niềm tin rằng qua các cuộc tranh luận hiện đang diễn ra, Chúa Thánh Thần sẽ chỉ cho chúng ta những con đường đổi mới trong sự trung thành với truyền thống Công Giáo.
Truyền thống không có nghĩa là bất động, mà là con đường mà một sinh vật sống động thay đổi và thích nghi mà không mất đi bản sắc của mình. (4) Trong viễn ảnh này, về phần tôi, tôi tin rằng một cách tiếp cận mục vụ đổi mới đối với hôn nhân và gia đình phải làm cho người ta biết rõ hơn về di sản của Công đồng cũng như lối giải thích thích đáng về nó mà Thánh Gioan Phaolô II đã trao cho chúng ta. Công đồng đã đặt nền móng cho một tầm nhìn mới về thần học bí tích, bắt đầu bằng một khái niệm mở rộng về “bí tích”, được áp dụng một cách loại suy cho Giáo hội. Quan điểm nền tảng này đổi mới mối quan hệ giữa bảy bí tích và Giáo hội, đặc biệt là về hôn nhân và gia đình. Đây là lý do tại sao, tại Công đồng, chúng ta cần bắt đầu lại từ Chúa Kitô, “Ánh sáng của các dân tộc”, không những để suy nghĩ lại việc chăm sóc mục vụ gia đình mà rộng hơn còn để đón nhận tất cả các quan điểm chăm sóc mục vụ của Giáo hội từ viễn ảnh gia đình. (5)
Bài viết của tôi sẽ lưu ý đến sự thay đổi này từ quan điểm thần học bí tích để sau đó tập trung vào mối liên kết hữu cơ giữa bí tích hôn nhân và tính bí tích của Giáo hội. Trong phần kết luận, tôi sẽ đề cập đến một số tiêu chuẩn nhất định về việc tuyên bố hôn nhân vô hiệu trong bối cảnh một cách tiếp cận mục vụ đổi mới tập trung vào lòng thương xót vẫn gắn kết với tính bất khả phân ly của hôn nhân.
I. Vatican Ii Và Sự Thay Đổi Giáo Hội Học Trong Thần Học Bí Tích
Truyền thống Công Giáo trình bày bảy bí tích như “phương tiện cứu rỗi” để thông truyền ân sủng của Chúa Kitô cho con người. Thánh Tôma Aquinô giải thích luận lý của các bí tích dựa trên các bước và điều kiện của cuộc sống con người: sinh ra, lớn lên, lương thực, trạng thái sống, hòa giải, bệnh tật và cái chết. Viễn cảnh phong phú này đã trở nên nghèo nàn trong thời hiện đại bởi vì ân sủng ngày càng được hiểu như một loại bản sao bí tích của bản nhiên, đôi khi không có sự tham chiếu nào đến Chúa Kitô ngoại trừ là nguyên nhân tác thành. Do đó, chúng ta đã quen với việc nghĩ về các bí tích lấy con người làm trung tâm, phục vụ nhu cầu cá nhân của con người và không có mối liên hệ hữu cơ nào với Giáo hội, ngoại trừ như là điều kiện để thuộc về định chế do Chúa Kitô thành lập. Sự phát triển của Giáo hội học trong thế kỷ XX lên đến tuyệt đỉnh ở các hiến chế vĩ đại của Công đồng Vatican II, mở ra những quan điểm mới bằng cách xem xét mầu nhiệm của Giáo hội bắt đầu bằng khái niệm bí tích: “Giáo hội, trong Chúa Kitô, có bản chất bí tích – một dấu chỉ và một công cụ, tức là, hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp nhất giữa mọi người.” (6) Tầm nhìn độc đáo và sâu sắc này của Hiến chế về Giáo hội bắt nguồn từ ý niệm mầu nhiệm trong Kinh thánh (7) và một lần nữa tiếp nhận xu hướng của Hiến chế về Phụng vụ Thánh, Sacrosanctum concilium: Phụng vụ hằng ngày xây dựng những người trong Giáo hội, biến họ thành đền thờ thánh của Chúa. Đồng thời, nó gia tăng một cách kỳ diệu quyền rao giảng Chúa Kitô của họ và do đó cho thấy Giáo hội là một dấu chỉ được giương cao giữa các dân tộc (x. Is 11,12), cho những người ở bên ngoài, một dấu chỉ mà dưới đó con cái Thiên Chúa đang tản mác có thể tụ tập lại với nhau (x. Ga 11,52) cho đến khi có một dàn chiên và một mục tử (x. Ga 10,16). (8)
Bằng cách mở rộng khái niệm bí tích và áp dụng nó vào Giáo hội như “dấu chỉ và mầu nhiệm hiệp thông”, Công đồng trao cho các bí tích một ý nghĩa nội tại có tính giáo hội, đào sâu quan điểm trước đó, tập trung vào việc cứu rỗi các cá nhân.
Quan niệm Giáo hội như một bí tích là xác định lại mối quan hệ của Giáo hội với thế giới theo dấu hiệu hữu hình của sự hiệp thông và trung gian của ân sủng, từ đó làm sáng tỏ ý nghĩa sứ mệnh của Giáo hội và bản chất riêng của các định chế của Giáo hội. Theo quan điểm này, mọi bí tích đều có thể được coi không những như các đáp ứng cho những nhu cầu nhân học mà còn như những khớp nối hữu cơ của một thân thể, cấu thành nên tính bí tích của Giáo hội đối với thế giới. Do đó, các bí tích mang một chiều kích truyền giáo, vì chúng tạo nên sự hiện diện của Giáo hội trước mắt các quốc gia.
Đối với quan điểm nền tảng này của Giáo hội, như bí tích cứu độ, như mầu nhiệm hiệp thông, chúng ta phải thêm chiều kích hôn nhân của thần học bí tích. Chiều kích này có nguồn gốc từ chính mặc khải, cũng như từ truyền thống của Giáo hội được Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo làm chứng:
Toàn bộ đời sống Kitô hữu mang dấu ấn tình yêu phu thê của Chúa Kitô và Giáo hội. Bí tích Rửa tội, việc gia nhập Dân Thiên Chúa, đã là một mầu nhiệm hôn nhân; có thể nói là lễ tắm hôn phối (x. Eph 5:26-27) diễn ra trước tiệc cưới, tức Bí tích Thánh Thể. Ngược lại, hôn nhân Kitô giáo trở thành một dấu hiệu hữu hiệu, bí tích của giao ước giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Vì nó biểu thị và thông truyền ân sủng, nên hôn nhân giữa những người đã được rửa tội là một bí tích thực sự của Giao Ước Mới. (9)
Do đó, tính bí tích của Giáo hội dựa trên mối tương quan hôn nhân giữa Chúa Kitô và Giáo hội, mối quan hệ mà Thánh Phaolô đề cập đến trong thư gửi tín hữu Êphêsô nhằm thiết lập giá trị bí tích của tình yêu vợ chồng giữa một người nam và một người nữ. Các bí tích khác cũng là những phát biểu rõ ràng của mối quan hệ hôn nhân này, nhưng chúng ta sẽ không đi vào chi tiết về vấn đề này để xem xét hôn nhân chặt chẽ hơn trong cơ cấu bí tích của Giáo hội và sứ mạng của Giáo hội.
II. Vị Trí Của Hôn Nhân Trong Tính Bí Tích Của Giáo Hội
Quả vừa mang tính quan phòng vừa mang tính tiên tri khi Công đồng Vatican II tái khẳng định giá trị của hôn nhân và gia đình vào thời điểm mà quá trình thế tục hóa các nền văn hóa và xã hội đang dần dần gây ra một cuộc khủng hoảng nhân học chưa từng có. Dự đoán mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng này, Công đồng đã tiến hành “tân phúc âm hóa” hôn nhân và gia đình trước khi thuật ngữ này được đặt ra. Nó lại bắt đầu từ Chúa Kitô và bộc lộ vẻ đẹp của gia đình như một giáo hội tại gia. Việc chăm sóc mục vụ trong Giáo hội còn lâu mới mang được Tin Mừng về gia đình đã được Công đồng cổ vũ và được tông huấn Famamilias consortio công bố một lần nữa này vào thực hành.
A. Kitô học hôn nhân: Điểm bắt đầu
Trên thực tế, điểm mới lạ của Công đồng là tái cơ cấu học thuyết truyền thống về hôn nhân và gia đình trên cơ sở Kitô học về hôn nhân được nêu rõ trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes:
Đấng Cứu Độ của chúng ta, quân phu của Giáo hội, (10) giờ đây gặp gỡ các đôi vợ chồng Kitô giáo qua bí tích hôn nhân. Người ở lại với họ để qua việc hiến thân cho nhau, vợ chồng sẽ yêu nhau với lòng chung thủy lâu dài, như Người đã yêu mến Giáo hội và hiến thân vì Giáo hội (x. Eph 5,25). (11)
Vượt xa quan niệm pháp lý về khế ước hôn nhân, Công đồng đã tái quan niệm bí tích theo nghĩa “gặp gỡ Chúa Kitô”, Tân Lang của Giáo hội, Đấng “ở lại với” các cặp vợ chồng và chia sẻ với họ tình yêu của Người. Chữ “as” [như] của Thánh Phaolô diễn tả sự tham gia của vợ chồng vào tình yêu của Chúa Kitô và tương đương với chữ “as” của Thánh Gioan trong lời cầu nguyện linh mục của Chúa Giêsu ở Gioan 17. Nó có ý nghĩa nhiều hơn là sự giống nhau qua việc bắt chước. Trên thực tế, nó khẳng định sự tham gia đích thực của vợ chồng vào chính tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo hội. Đoạn văn sau đây làm chứng cho điều này: “Tình yêu vợ chồng đích thực được cuốn hút vào tình yêu thiêng liêng và được hướng dẫn và làm phong phú bởi quyền năng cứu chuộc của Chúa Kitô và hành động cứu độ của Giáo hội”. (12) Ý tưởng tương tự này đã được diễn tả trong đoạn 11 của Hiến chế Ánh sáng muôn dân [Lumen gentium]: “nhờ bí tích Hôn phối, qua đó họ biểu thị và chia sẻ mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu chung thủy giữa Chúa Kitô và Giáo hội, các cặp vợ chồng Kitô giáo giúp nhau đạt được sự thánh thiện trong đời sống hôn nhân của họ.” Nhân tiện, chúng tôi lưu ý rằng bí tích hôn nhân không chỉ giới hạn vào việc giúp đỡ các cặp vợ chồng thực hiện các mục đích tự nhiên của sự kết hợp của họ, tức là sự hợp nhất giữa vợ chồng và việc sinh sản và giáo dục con cái. Nó nâng tình yêu con người lên phẩm giá của một dấu chỉ bí tích, nghĩa là một thực tại hữu hình mang trong mình thực tại vô hình của Tình Yêu Thiên Chúa, được cam kết trong mối quan hệ giao ước với nhân loại trong Chúa Giêsu Kitô. Do đó, việc mô tả hôn nhân như một ơn gọi nên thánh - một sự thánh thiện vợ chồng và gia đình, mặc khải và nhập thể một cách cụ thể vào thế giới bản chất đích thực của Giáo hội là Hiền thê của Chúa Kitô:
Gia đình Kitô giáo phát sinh từ hôn nhân, là hình ảnh và sự chia sẻ mối quan hệ cộng tác yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo hội; nó sẽ chứng tỏ cho mọi người thấy sự hiện diện sống động của Chúa Kitô trong thế giới và bản chất đích thực của Giáo hội bằng tình yêu và sự sinh hoa trái quảng đại của vợ chồng, bằng sự hiệp nhất và chung thủy của họ, cũng như bằng cách thức yêu thương mà mọi thành viên trong gia đình hợp tác với nhau. (GS, 48)
Như vậy, Công đồng đã tái thiết lập giáo lý về hôn nhân và gia đình theo quan điểm Kitô học, qua đó trao cho gia đình một địa vị giáo hội đích đáng. Nhờ ân sủng đặc biệt của bí tích (1 Cor 7:7), chúng ta có thể gọi gia đình một cách chính đáng là “giáo hội tại gia,” (13) như một số Giáo phụ của Giáo hội đã nói.
Đây không chỉ đơn giản là một thuật ngữ tu từ; nó được thiết lập về mặt lịch sử dựa trên khái niệm “oikos” [gia hộ?] trong Tân Ước, (14) mô tả kinh nghiệm của các cộng đồng Kitô giáo đầu tiên. Nó cũng được thiết lập một cách tín lý trên những mối dây mật thiết kết hợp Bí tích Rửa tội, Thánh Thể và hôn nhân.
Tuy nhiên, tên gọi này đòi hỏi một suy tư thần học sâu sắc hơn để có thể bộc lộ tính thích hợp và sinh hoa trái của nó trong tổng thể tính bí tích của Giáo hội. Là “dấu chỉ” và “mầu nhiệm hiệp thông”, Giáo hội thể hiện mình cách đặc biệt trong cộng đoàn Thánh Thể, là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Phục Sinh. Giáo Hội cũng tự phát biểu qua các mối quan hệ định chế giữa Giáo hội và các quốc gia, trong hoạt động truyền giáo và bác ái, cũng như trong cuộc đấu tranh cho công lý và tình liên đới. Cuối cùng, Giáo Hội tự phát biểu qua sự hiện diện của các gia đình, là ốc đảo hiệp thông cho một dân tộc đang hành trình qua sa mạc theo bước chân của Chúa Kitô.
B. Xây dựng nền tảng cho gia đình, giáo hội tại gia
Tôi nhấn mạnh ý tưởng vợ chồng tham gia vào tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo hội. Đây là cốt lõi của Tin Mừng gia đình, sức mạnh và vẻ đẹp của nó, bắt nguồn từ Bí tích Rửa tội và bộc lộ những đặc tính tự nhiên và siêu nhiên của tình yêu vợ chồng: sự hiệp nhất, chung thủy, sinh hoa trái và bất khả phân ly. Ở đây chúng ta hãy dừng lại ở mối tương quan giữa Bí tích Rửa tội và hôn nhân, vốn là nền tảng cho tư cách giáo hội của gia đình.
Bí tích Rửa tội là một hành vi hiến thân cho Chúa Kitô trong đức tin, tiếp nối sự trình bày của Giáo hội, nơi mà đức tin ôm ấp và bảo đảm cho đức tin còn non nớt và mong manh của con cái mình. Chúa Kitô đáp lại hồng ân này bằng hồng ân của chính Người, một hồng ân in dấu ấn đời con thảo của Người vào tâm hồn những người đã được rửa tội. Sau khi được xác nhận bởi ấn tín của Chúa Thánh Thần và được đưa vào cộng đoàn Thánh Thể, người đã được rửa tội tham gia một cách bí tích vào sự hiệp thông Ba Ngôi như các chi thể của Thân Thể Chúa Kitô, là Giáo hội.
Giờ đây, việc trao đổi hồng ân giữa Chúa Kitô và Giáo hội, diễn ra trong diễn trình khai tâm Kitô giáo, được gọi là đỉnh cao nhân dịp bí tích hôn phối. Hành vi tự hiến cho nhau của vợ chồng, từ sự trao đổi ưng thuận ban đầu cho đến sự hoàn hợp qua sự kết hợp thể xác, diễn ra trong một hành vi đức tin. Nghĩa là, nó diễn ra trong sự hiến thân cho Chúa Kitô, Đấng mà đôi phối ngẫu đã thuộc về qua Bí tích Rửa tội của họ; họ xác nhận sự thuộc về này nhân cuộc hôn nhân bí tích của họ.
Điều gì thực sự xảy ra trong việc trao đổi hồng ân vốn là bí tích hôn nhân này? Giáo Hội dâng lên Chúa Kitô cặp vợ chồng đã được rửa tội qua hành vi tự hiến cho nhau trong đức tin. Chúa Kitô, Tân Lang của Giáo Hội, đáp lại bằng hồng ân hôn nhân, đặc sủng của Chúa Thánh Thần (1 Cr 7:7), đặc sủng này đóng dấu sự kết hợp này bằng một dấu ấn bất khả phân ly, vốn không là gì khác hơn sự hiện diện của Tình Yêu tuyệt đối và không thể đảo ngược của Chàng Rể thần linh. Việc trao đổi hồng ân này giữa Chúa Kitô và Giáo hội qua vợ chồng, những người được hưởng lợi từ nó, đã thay đổi một cách triệt để địa vị cá nhân và giáo hội của họ. Họ là những cá nhân tự trị sống trong một tình yêu đích thực, nhưng họ trở thành một cặp vợ chồng bí tích nhờ Tình yêu hôn nhân của Chúa Kitô, mà họ nhận được như một hồng ân. Tình Yêu này ngự trong tình yêu của chính họ, thánh hóa, thanh lọc nó và làm cho nó sinh hoa kết quả về mặt nhân bản và giáo hội. Các cặp vợ chồng có thể đến chỉ để tìm kiếm phúc lành cho tình yêu của họ, và họ nhận được gấp trăm lần, vì Chúa Kitô “ở lại với họ” và cứu rỗi họ. Người làm như vậy bằng cách trao lại cho họ tình yêu trọn vẹn của họ giờ đây được bổ sung bởi sứ mạng của Giáo hội: đó là yêu thương nhau “trong Chúa” (1 Cr 7:39), cống hiến cho thế giới chứng tá sống động về Tình Yêu của Chúa Kitô trong đời sống hằng ngày của gia đình họ, vốn là giáo hội tại gia.
Ở đây tôi không nói đến một “lý tưởng” được trao cho các cặp vợ chồng để thúc đẩy tình yêu chung thủy và sinh hoa trái của họ. Tôi đang nói về việc vợ chồng thuộc về Chúa Kitô như thân thể thuộc về đầu, như vợ chồng thuộc về nhau. Việc thuộc về này tước đoạt họ khỏi tư cách là những cá nhân hoàn toàn tự trị để trao họ cho nhau trong thực tại thứ ba: cặp đôi bí tích, mà căn tính của họ được thiết lập bởi ân sủng thánh hiến (quasi consecrati) (15) và sự thánh hóa được mô tả ở trên.
Như vậy, gia đình chỉ có được địa vị của một giáo hội tại gia dựa trên sự trao đổi hồng ân này, một sự trao đổi hoàn tất trong chính xác thịt của vợ chồng mầu nhiệm Giao ước giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Nếu Bí tích Rửa tội là điều kiện căn bản cho việc này, thì Bí tích Thánh Thể là cứ điểm [locus] ưu tiên của nó, như việc cử hành thường xuyên mầu nhiệm hôn nhân tuyệt hảo của Chúa Kitô và Giáo hội.
C. Chứng tá đích thực của Bí tích Thánh Thể, một mầu nhiệm phu thê
Thực ra, Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể là hai thời điểm cấu thành và bổ sung cho hôn nhân của Giáo hội, cung cấp bối cảnh cho tính bí tích của hôn nhân. Qua việc trao đổi những sự ưng thuận “trong Chúa” và sự hoàn hợp thể xác, hiện thực hóa “một xác thịt” nguyên thủy và bí tích theo ý muốn của Đấng Tạo Hóa và được Chúa Kitô Cứu Thế xác nhận (x. St 2:24; Mt 19:5; Mc 10:8), cặp đôi này mong muốn có một “cộng đồng thân mật... của sự sống và tình yêu” (16) vốn hạnh phúc và xứng đáng với tính phu thê của Giáo Hội.
Trong khuôn khổ này, việc cặp vợ chồng đón nhận Thánh Thể nói lên sự thuộc về thiết yếu của họ đối với Chúa Kitô và Giáo hội - một sự thuộc về cũng được nuôi dưỡng bằng việc thỉnh thoảng cầu xin bí tích xá giải tội lỗi của họ. Như vậy, cặp vợ chồng bí tích về bản chất thuộc về mầu nhiệm Thánh Thể, vì ân sủng dành riêng cho vợ chồng Kitô giáo là nội dung của bí tích này: Tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo hội cho đến cái chết và sự Phục sinh. Hôn nhân chính là bí tích của Tình yêu này, tình yêu không thể phá hủy và chiến thắng mọi lỗi lầm. Do đó, cặp vợ chồng Kitô giáo có quyền tiếp cận trực tiếp với bí tích Thánh Thể nhờ căn tính bí tích của vợ chồng.
Mối liên kết nội tại này không những làm cho việc thường xuyên rước lễ trở nên có giá trị đối với vợ chồng, nhằm duy trì các nghĩa vụ vốn có trong cam kết hôn nhân của họ; nó còn đòi hỏi họ phải cởi mở và tôn trọng sự dấn thân của Chúa Kitô đối với họ, với tất cả những yêu cầu của nó. Khi Rước lễ, cặp vợ chồng muốn nói “Xin vâng” một lần nữa với Giao ước giữa Chúa Kitô và Giáo hội, giao ước chứa đựng, duy trì, thánh hóa và cứu vãn giao ước của vợ chồng. Họ được kêu gọi phục vụ một Tình yêu cao cả hơn tình yêu của chính họ, hiện diện một cách mầu nhiệm nơi họ bất chấp những thăng trầm của đời sống con người.
Như thế, Chúa Kitô kéo dài chứng tá của Người về tình yêu chung thủy và sinh hoa trái trong sự hiện hữu của cặp đôi bí tích, bất kể những thăng trầm của đời sống hôn nhân của họ. Nếu đôi khi thiếu ân sủng thánh hóa trong cuộc gặp gỡ giữa vợ chồng với Bí tích Thánh Thể, thì mối dây vợ chồng (res et Sacramentum= Thực thể và dấu chỉ [ân sủng và bí tích]) vẫn là một điều căn bản, khách quan, vì nó tiếp tục làm chứng cho lòng trung thành của Chúa Kitô với Giáo hội của Người, ngay cả trong trường hợp có một sự chia ly của vợ chồng.
Do đó, không thể có một cuộc hôn nhân bí tích khác đối với những người ly dị dân sự đã rời bỏ cuộc kết hợp đầu tiên của họ. (17) Một khả thể như vậy sẽ mâu thuẫn trực tiếp với cam kết không thể đảo ngược của Chúa Kitô Chàng Rể trong cuộc kết hợp đầu tiên. Do đó, hành vi Rước lễ Thánh Thể cũng bị loại trừ, vì trước hết nó diễn tả tiếng “Xin Vâng” đối với chứng tá của Chúa Kitô về tình yêu phu thê đối với chúng ta, trong tính phu thê bao trùm của Giáo hội. Chúng ta có thể nói rằng một hành động như vậy, trong hoàn cảnh tái hôn, sẽ áp đặt lên Chúa Kitô một dấu chỉ bí tích trái ngược với chứng tá của chính Người. Đây là lý do tại sao Giáo hội luôn duy trì một giới hạn đối với những người Công Giáo đã ly dị và tái hôn, không loại trừ họ khỏi cộng đồng, khỏi việc tham gia vào thánh lễ hoặc các hoạt động cộng đồng.(18)
Trong hoàn cảnh hiện tại, có nên vượt qua giới hạn này nhân danh một cách tiếp cận mục vụ mới về lòng thương xót không? Đây là câu hỏi mà nhiều người đang đặt ra hiện nay và chúng ta phải tiếp cận dưới ánh sáng chiều kích giáo hội của các bí tích.
Còn nữa