Bài của Antonio López
“Tính bất khả tiêu, tính không thể hủy tiêu, là chân lý của việc cho đi.”
Tính bất khả tiêu là lời khẳng định vui tươi rằng tình yêu vợ chồng không phụ thuộc vào tâm trạng của vợ chồng, cũng như những hoàn cảnh tốt hay xấu không lường trước được mà vợ chồng có thể gặp phải, cũng như không phụ thuộc vào những ý tưởng hay nhận thức đang thay đổi mà họ có thể có về “cuộc hiệp thông mật thiết của cuộc sống và tình yêu” họ được ban cho để sống. (1) Tình yêu phu thê của một người nam và một người nữ là bất khả phân ly có nghĩa là tình yêu có thể tiếp tục phát triển và các cặp vợ chồng có thể chung thủy qua mọi thăng trầm của đời sống hôn nhân. Tuy nhiên, tin vui tình yêu hôn nhân không tan biến, dường như luôn mâu thuẫn với kinh nghiệm nhân bản. Vì sự mong manh của tự do con người, tính không thể đoán trước của lịch sử và xu hướng gói gọn ý nghĩa của tình yêu trong một ý niệm hạn hẹp cho rằng người ta có thể làm chủ và loại bỏ bất cứ điều gì không thể gói gọn trong nhận thức phiến diện này, thử hỏi liệu tính bất khả phân ly có thực sự định nghĩa được tình yêu vợ chồng hay không? Đúng hơn, phải chăng số lượng lớn các cuộc ly hôn và việc thường xuyên ngoại tình là bằng chứng ngầm cho thấy tính bất khả phân ly gây nguy hiểm cho việc hoàn thành cuộc sống của người ta? Há sự hy sinh mà tính bất khả tiêu đòi hỏi không cho thấy nó còn xa mới trở thành một giấc mơ lãng mạn hay sao? Hơn nữa, nếu người ta ý thức được tính khác biệt không thể giản lược của người phối ngẫu và trách nhiệm to lớn trong việc thụ thai và giáo dục con cái, thì tính bất khả tiêu có phải là quá đáng không? Khi nhìn vào những thách đố này, có thực sự trung thực không khi cho rằng việc làm chứng cho “tin mừng của gia đình” đòi hỏi phải có sự hiệp thông yêu thương bất khả phân ly và độc chiếm? (2) Há sẽ không tốt hơn hay sao nếu chỉ thừa nhận rằng sự kết hợp tình yêu của vợ chồng và sự hiến thân toàn diện và bản thân mà họ được kêu gọi chỉ phụ thuộc vào những gì nằm trong khả năng tự do của họ? Và nếu đúng như vậy, há không đúng hơn sao khi thừa nhận rằng, cho dù diễn trình quá độ có đau đớn đến đâu, đôi khi tình yêu hôn nhân phải được sống với một người khác với người mà họ đã bắt đầu?
Giáo hội, không hề phớt lờ những câu hỏi này, vốn quen thuộc một cách thân thiết với thực tại con người mà chúng trình bày để xem xét. Bởi vì được sinh ra từ hồng phúc thánh thể và hiến sinh của Chúa Kitô cho mình, Giáo Hội biết, do hiện hữu của mình, những khó khăn và thất bại của tình yêu con người cũng như những gì tình yêu Thiên Chúa có thể chịu đựng và phát sinh ra (Rm 8:32). Giáo Hội đã nhiều lần thấy rằng chỉ có Chúa Kitô mới biết điều gì nơi con người, và Người, qua Chúa Thánh Thần, cho phép con người nhìn thấy sự thật của tình yêu và đón nhận nó. Kinh nghiệm của Giáo Hội và sự kết hợp của Giáo Hội với Chúa Kitô mang lại cho Giáo Hội sự can đảm dịu dàng để công bố điều này: hôn nhân là một con đường thánh thiện có giá trị, đó là một bậc sống trong đó vợ chồng có thể trở thành nhân bản trọn vẹn chính vì sự kết hợp do Thiên Chúa ban cho họ là sự kết hợp bất khả phân ly, và được kêu gọi sinh hoa trái. (3) Nhận thức được những niềm vui và khó khăn của họ, Giáo hội có thể đồng hành cùng các cặp vợ chồng, giáo dục họ về sự thật của hôn nhân và làm chứng cho họ qua chính cuộc hiện sinh của mình - cuộc hiện sinh mà tình yêu phu thê là ký ức sống động: tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo Hội (Eph 5:32). (4)
Để nắm được việc hôn nhân bất khả tiêu có nghĩa gì, trước tiên chúng ta cần ý thức được một cách nào đó quan niệm con người nhân bản như một chủ thể tự do và có ý thức, một sự hiểu biết về điều đã khiến hôn nhân và gia đình biến mất khỏi nền văn hóa ngày nay (phần 1). Điều này sẽ giúp chúng ta thấy rằng, trái ngược với những giả định thông thường của chúng ta, một người nam và một người nữ có thể hiến thân trong hôn nhân bởi vì trước tiên Thiên Chúa ban họ cho chính họ và kêu gọi mỗi người hãy để người kia trở thành một phần của mình trong một sự hiệp thông đời sống và tình yêu sinh hoa trái (phần 2–3). Việc tham gia bí tích vào tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo hội, trong khi xác nhận sự thật của tình yêu hôn nhân, ban cho vợ chồng ân sủng yêu thương nhau, nghĩa là luôn chung thủy theo thời gian (phần 4). Những suy tư nhân học và Kitô học này về ý nghĩa của tính bất khả tiêu, giúp chúng ta tiếp cận với lòng thương xót của Chúa Cha, sẽ giúp chúng ta thấy được bản chất của sự hy sinh đòi hỏi trong đời sống hôn nhân và cách Giáo hội có thể đồng hành với vợ chồng trên con đường chung thủy (phần 5).
1. Rời Bỏ Gia Đình?
Khó khăn của hôn nhân, mà nhiều người biết qua kinh nghiệm, không thể chỉ bắt nguồn từ sự thất bại trong tình yêu của mỗi người phối ngẫu hoặc thậm chí là do hoàn cảnh rộng lớn hơn của cuộc sống vợ chồng của họ. Đúng hơn, nhiều thách thức mà hôn nhân ngày nay phải đối diện gắn liền với sự thay đổi lớn hơn nhiều trong nhận thức của con người về chính mình trong tư cách một ngôi vị, và nền nhân học mới này đi đôi với sự hiểu biết đang phát triển trong văn hóa phương Tây của chúng ta về hôn nhân và gia đình. “Hôn nhân,” Wendell Berry viết, “giờ đây đã mang hình thức ly hôn: một cuộc thương lượng kéo dài và sôi nổi về việc mọi sự sẽ được phân chia như thế nào. Trong thời gian kết hợp dễ hiểu là tạm thời của họ, cặp đôi ‘đã kết hôn’ thường sẽ tiêu thụ một lượng lớn hàng hóa và một phần lớn của nhau.” (5) Mặc dù có vẻ nghịch lý nhưng mô tả của Berry cho thấy một cách chính xác rằng hôn nhân ngày nay được nhìn nhận như một loại quan hệ hợp đồng được thiết lập bởi hai quyền tự do của con người. Thay vì hiến dâng cả cuộc đời mình như tình yêu đòi hỏi, trong hợp đồng này, vợ chồng chỉ hiến dâng một phần của mình. Việc cho đi một phần này đòi hỏi rằng, trong cuộc sống chung của mình, mỗi người phối ngẫu không thể không cố gắng tránh đánh mất những gì mình sợ phải trao cho người kia, tức là chính mình. Tuy nhiên, vì không cống hiến hết mình nên anh ta phải nỗ lực để giữ mình; nghĩa là anh ta phải tìm cách bảo tồn hoặc gia tăng những gì anh ta coi là không thể thiếu cho hạnh phúc của chính mình: tài sản, niềm vui và cuối cùng là quyền lực. Nếu cuộc sống trở thành vấn đề sở hữu thay vì nhận và cho, thì như Berry chỉ ra, tình yêu vợ chồng không thiết lập bất cứ sự hợp nhất thực sự nào. “Hình thức” hôn nhân được thương lượng không bao giờ tạo thành một tổng thể thực sự, nghĩa là một sự hiệp thông sự sống và tình yêu. Được hiểu đơn giản như một hợp đồng, hôn nhân trở thành việc đặt cạnh nhau, được hai bên đồng ý, hai cuộc hiện sinh sẽ kéo dài chừng nào cuộc đàm phán còn tiếp diễn. Thiếu một hình thức khách quan lớn hơn các cuộc hiện sinh đơn nhất của vợ chồng, đời sống hôn nhân không những mất đi những nền tảng giúp nó vượt qua những sức mạnh phân hủy làm xói mòn bất cứ sự hiệp thông hôn nhân nào; nó cũng tích cực – mặc dù hầu hết là vô tình – góp phần vào sự phân mảnh chính nó.
Sự kiện tính phi hiệp nhất dưới vỏ bọc tình yêu hiện nay là hình thức hôn nhân chiếm ưu thế đã có lịch sử lâu dài. (6) Tóm lại, chúng ta thấy, dẫn đến những năm 1950, tình yêu lãng mạn— vốn tìm kiếm một người bạn đồng hành được tự do lựa chọn mà với họ, người ta có thể “tìm thấy niềm an ủi và đổi mới tinh thần,” cũng như sống một đời sống tình dục đam mê mà không bị ức chế quá mức—đã trở thành nhận thức nổi bật về tình yêu và gây ra sự biến mất của hôn nhân truyền thống. (7) Tuy nhiên, vì tình yêu lãng mạn đặt ra những tiêu chuẩn cao một cách bất khả về sự tận tâm, chung thủy và thân mật tình dục, các cặp vợ chồng cuối cùng đã chấp nhận điều được gọi là “hôn nhân đồng hành”, tức là sự kết hợp của những người bình đẳng, những người không mong đợi sự tận tâm mãnh liệt sẽ là tâm thái hàng ngày chi phối họ. Điều kiện sống và làm việc luôn thay đổi, cũng như sự tách biệt tình yêu, tình dục và khả năng sinh sản do thuốc tránh thai gây ra vào những năm 1960, đã khiến các cặp vợ chồng coi hôn nhân không phải là “hòn đá góc” [cornerstone] của cuộc đời họ mà là “hòn đá đỉnh” [capstone] của cuộc sống người trưởng thành: cuộc sống gia đình giờ đây chỉ được theo đuổi sau khi người ta đã hoàn thành mọi điều được coi là cần thiết và khả hữu liên quan đến giáo dục, nghề nghiệp và an ninh tài chính. (8)
Không khó để nhận ra rằng dưới bề mặt của những biểu thức khác nhau này về đời sống hôn nhân và gia đình là điều mà chúng ta có thể gọi là nền nhân học mang diện mạo Thiên Chúa [theomorphic anthropology], nghĩa là, việc con người cho rằng mình là nguồn gốc của chính mình. (9) Nền nhân học này dẫn dắt các người đàn ông và đàn bà tri nhận người phối ngẫu chủ yếu như người bình đẳng mà với họ, người ta chia sẻ một phần hoặc phần lớn cuộc sống vào bất cứ thời điểm nào mà người ta cho là thích hợp. Điều này coi con người như một tinh thần không có thân xác mà hữu thể bị giản lược chỉ còn là ý thức. Theo quan điểm này, mọi điều - đặc biệt là Thiên Chúa và con cái - đều phục tùng bản ngã được hiểu như tự do có ý thức. (10) Do đó, con người, một cách nền tảng nhất, là một bản ngã trừu tượng, nghĩa là, một người mà cơ thể của họ và các mối quan hệ của họ với người khác (cha mẹ, vợ/chồng, con cái, bạn bè, Thiên Chúa) hoàn toàn chỉ là thứ yếu. (11) Kết quả là, các câu hỏi liên quan đến việc khi nào sống với người khác, khi nào có con và có bao nhiêu con, công việc chiếm vị trí nào, v.v., luôn được xác định bởi những gì bản thân đánh giá tốt nhất. Vì điều quan trọng là con người có khả năng tự mình xác định điều gì là tốt hay xấu, nên nhân học mang diện mạo Thiên Chúa này coi trọng quyền lực hơn tất cả. Chủ trương táo bạo như vậy về quyền lực toàn diện bắt nguồn từ “sự khẳng định của bán thần Prometheus rằng tinh thần con người tự tạo ra chính nó, vốn bắt chước thần linh một cách không mệt mỏi theo những cách luôn khác nhau.” (12) Trong nguyên tắc, không một hữu thể nhân bản nào có thể cho rằng mình được ban tặng các đặc điểm của Thiên Chúa. Dù sao, được sinh ra không bao giờ là kết quả do quyết định của chính mình. Tuy nhiên, sự thống trị thiên nhiên mà kỹ thuật và khoa học cổ vũ, do đó che giấu chính thực tại thiên nhiên, ủng hộ ảo tưởng cho rằng con người là nguồn gốc của chính mình - hoặc ít nhất ngăn cản con người đặt ra câu hỏi về nguồn gốc của chính mình.(13) Quan niệm về con người này “mang diện mạo Thiên Chúa” chính bởi vì người ta mong muốn giống như Thiên Chúa, nghĩa là trở thành người khởi đầu chịu trách nhiệm cho bất cứ điều gì xảy ra hoặc hiện hữu. Tuy nhiên, vì ý tưởng của con người về bản thân mình như nguồn gốc không thể chạm tới nền tảng hiện hữu của họ - bởi vì nếu điều đó xảy ra, nó sẽ nhắc nhở con người về sự hữu hạn do chính anh ta tạo ra – nên nó chỉ có thể là hoạt động đơn thuần, tự do: “Khởi đầu có Hành động,” như Goethe đã nói. (14)
Chính nền nhân học mang diện mạo Thiên Chúa này chịu trách nhiệm đối với quan niệm về hôn nhân dưới góc độ ly dị và dây hôn phối như việc thực thi hai quyền tự do hữu hạn mà chiều rộng và ý nghĩa của chúng nằm trong ý chí tích cực và có ý thức của vợ chồng. Nguồn gốc của sự kết hợp, hiểu theo cách này, chỉ là sức mạnh tự do cá nhân của vợ chồng. Do đó, sự kết hợp của họ không bao giờ là bất cứ điều gì hơn là tổng số của những quyền tự do hữu hạn, đơn nhất và những ý định chủ quan của họ. Một số nhà thần học Công Giáo được nhìn nhận chắc chắn, có quan điểm được chia sẻ rộng rãi, đồng tình với và cổ vũ lối giải thích này về sự kết hợp hôn nhân mà không coi thường các chiều kích tôn giáo và giáo hội của nó. Họ nói về sự kết hợp như một “mối dây luân lý”, được gắn kết với nhau không phải vì tính chất tốt đẹp nội tại của nó mà vì nó là thành quả của ý chí vợ chồng, tức là sản phẩm của những hành động và ý định tốt đẹp của họ. (15) Không cần phải nói cũng biết rằng, nếu hiểu theo cách này, một khi không còn cảm nhận được tình yêu hoặc không còn mong muốn sự kết hợp vợ chồng nữa, thì vợ chồng không có lý do gì để tiếp tục chung sống với nhau. Nói rộng hơn, nếu chúng ta vô tình ủng hộ một nền nhân học mang diện mạo Thiên Chúa, chúng ta sẽ hiểu sai Huấn quyền gần đây của Giáo Hội Công Giáo đề xuất hôn nhân như một sự hiệp thông bất khả phân ly của cuộc sống và tình yêu theo nghĩa tự hiến. (16) Nếu chúng ta từ bỏ tính viên mãn của giáo huấn này, sự hiệp thông sẽ được hiểu một cách giản lược như một điều vợ chồng phải “làm” - và ly hôn sẽ được coi là một sự kiện đáng tiếc lẽ ra không nên nhưng có thể xảy ra. Do đó, việc làm sáng tỏ ý nghĩa hôn nhân bất khả tiêu đòi hỏi phải xem món quà của vợ chồng là biểu thức nói lên món quà vốn là hữu thể ra sao. Chỉ có một nền nhân học được thông tri bởi đặc tính quà tặng của hữu thể hữu hạn và được tạo dựng của con người mới có thể giải thích thỏa đáng về hôn nhân như một sự kết hợp bất khả tiêu, bởi vì, như chúng ta sẽ xem xét bây giờ, đó là nền nhân học duy nhất tôn trọng sự cao cả và giới hạn của quyền tự do của con người. (17)
2. Hồng Ân Được Là Nhân Bản
Trong một xã hội mà tình yêu có một hình thức “lỏng” khác biệt, như Bauman nói, lời khẳng định rằng hữu thể nhân bản được tạo dựng cho một sự hiệp thông bất khả tiêu và họ có khả năng hiệp thông như thế xem ra có vẻ ngây thơ. (18) Thực vậy, giáo huấn của Giáo hội về tính bất khả tiêu của hôn nhân sẽ vẫn là điều khó hiểu trong chừng mực con người được quan niệm như một tự do trừu tượng, nghĩa là như một tác nhân không có tương quan, tin tưởng và hành động như thể mình là nguồn gốc của chính mình. Ngược lại, chúng ta có thể bắt đầu thấy rằng điều này không phải như vậy khi suy gẫm về mầu nhiệm vĩnh cửu của việc sinh hạ, mầu nhiệm xác định con người là gì và thông tri mọi hành động của họ. Con người hiện hữu bởi vì họ được trao ban cho chính họ: họ là một hồng ân, một quà tặng. Khả năng khẳng định và sống với và vì người khác, khả năng diễn tả tính hiệp nhất không thể tách biệt giữa chân lý và thiện ích riêng của tình yêu, bắt nguồn từ mầu nhiệm hữu thể con người được trao ban cho chính họ. Người nam và người nữ có thể tự hiến thân cho nhau trong hôn nhân và hứa chung thủy với nhau vì họ là những người đầu tiên và luôn luôn được trao ban cho chính họ. Sau khi nhìn vào phép lạ được trao ban vốn đặc trưng của mỗi người, chúng ta sẽ có thể làm sáng tỏ ý nghĩa của hành động vợ chồng hiến thân cho nhau qua sự ưng thuận của họ.
2.1. Được trao ban để hiện hữu
Hữu thể nhân bản hoàn toàn được trao ban cho chính họ. Điều này có nghĩa là vì con người không thể bị giản lược hoặc vào cha mẹ hoặc vào sự tất yếu của thiên nhiên, nên tinh thần nhập thể của con người là một quà tặng. Bản thể của họ, thứ thực sự là của họ, bao gồm việc trở thành quà tặng. Sự tồn hữu của họ, việc họ tồn tại và bước đi trong lịch sử ở một bình diện sâu xa hơn chiều dài hữu hạn của việc hiện hữu sinh học, đã loại bỏ khả thể món quà hiện hữu của họ có thể bị thu hồi. Sự bất khả này là điều mang lại cho con người mùi vị của sự vĩnh hằng, một điều khiến con người hy vọng vào sự xác nhận cuối cùng món quà hiện hữu hữu hạn của mình, và là điều, khi bị hiểu sai, con người cho rằng mình là nguồn gốc duy nhất của chính mình. Đồng thời, vì con người hoàn toàn được trao ban cho chính họ nên hữu thể họ không thuộc quyền sử dụng của chính họ. Món quà hiện hữu của họ không thể bị thu hồi thế nào, thì họ cũng không thể trả lại chính họ như họ quen làm với những thứ gặp trục trặc hoặc không còn làm họ hài lòng như thế. Như thế, đây là nghịch lý của con người: con người là quà tặng và do đó được trao ban cho chính họ, và chính vì lý do này, con người không phải là của riêng họ. Hiện hữu có nghĩa là được trao ban, nghĩa là của riêng mình và thuộc về người khác.
Thứ hai, các khả năng tinh thần của con người - tự do, suy nghĩ và ham muốn - phản ảnh thực tại món quà hiện hữu, và việc thực thi chúng sẽ chỉ đúng nếu chúng phản ảnh bản chất của con người. Hữu thể nhân bản được tự do vì họ được trao ban cho chính họ. Nếu họ không được trao ban cho chính họ thì món quà hữu thể của họ sẽ không được trao tặng một cách trọn vẹn. Phép lạ luôn gây ngạc nhiên về hữu thể của con người là, bằng cách mời gọi con người hiện hữu, Thiên Chúa cho phép họ trở thành khác hơn chính Thiên Chúa; nghĩa là, một cách mầu nhiệm và chân thực, con người được trao quyền tùy ý sử dụng chính họ. Tuy nhiên, vì họ hoàn toàn được trao ban cho chính họ, nên, trong căn bản sâu thẳm nhất, tự do có nghĩa là nhận ra với lòng biết ơn điều này: mầu nhiệm Hữu thể, mà từ đó con người phát sinh, là tất cả, và nó mong muốn trao ban chính nó cho con người và được con người đáp trả. Điều giải phóng con người, thay vì tuyên bố mình là nguồn gốc tuyệt đối của chính mình, là sự thừa nhận này, vì trong đó con người cũng được ban cho quyền sở hữu nguồn gốc của mình mà không giảm thiểu nguồn gốc đó. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là tự do của con người không có sức mạnh riêng. Trái ngược với những gì nền văn hóa của chúng ta thường giả thiết, nó có nghĩa là quyền lực này chỉ có được khi nó được trao ban. Để không tự hủy diệt, tự do cần cả hai chiều kích: điều được trao ban cho chính nó và điều được trao ban. Khả năng tư duy đạt được kết quả thực sự khi nó là sự khám phá đầy ngạc nhiên về sự thật của điều hiện hữu, bao gồm việc nhận ra rằng sự thật này luôn lớn hơn những gì người ta có thể nắm bắt được. Chẳng hạn, bất cứ ai thừa nhận rằng việc họ nhìn thấy sự thật về tình yêu vợ chồng xảy ra bên trong một hữu thể được nhìn vĩ đại hơn và điều họ nhìn thấy được trao ban cho họ, thì người đó ngày càng đi sâu vào lãnh vực vô tận của sự thật. Ngược lại, tư duy sẽ bị giản lược thành một kiểu tạo tác trong chừng mực nó nhắm đến việc sắp xếp các ý tưởng và áp dụng trật tự này vào việc thực thi quyền lực có hậu ý. Về khả năng ham muốn, vì thực tại, vốn là quà tặng, là dấu hiệu của nguồn gốc tối thượng của nó, vẻ đẹp của nó khiến con người ước muốn trở thành một với những gì họ không là và tôn trọng điều khác này trong tính khác của nó. Khi trao thân cho những gì họ nhận được, những ham muốn của họ vừa được thỏa mãn vừa được nâng cao. Trong khi ba khả năng này thuộc về mỗi con người, không khả năng nào trong số này được thực thi bởi một cá nhân biệt lập mà luôn luôn được thực thi bởi một người, đã được trao ban cho chính họ trong và qua một gia đình, chỉ có thể biết, yêu thương và mong muốn bên trong sự hiệp thông yêu thương. (19)
Thứ ba, như cha mẹ sớm nhận ra khi một đứa trẻ được trao ban cho họ, thì sự kiện mỗi người hoàn toàn được trao ban cho chính họ có nghĩa là có một lý do cho sự hiện hữu của họ và lý do này được đưa ra từ bên trong món quà hữu thể của họ. Một vật không có lý do thỏa đáng cho sự hiện hữu của nó thì không thể được gọi một cách chính đáng là một “món quà”. Nói về số phận [logos] tính quà tặng của con người (nó là gì và tại sao nó là vậy) là nói về số phận độc đáo của con người. Lý do cho sự hiện hữu của con người – một lý do khai mở một cách cụ thể hơn hiện hữu có nghĩa gì đối với con người – sẽ không được tiết lộ cho con người nếu không có sự tham gia của họ. Ở đây một lần nữa, số phận (logos) của con người được người khác trao cho họ, nhưng đồng thời, nó không thể xảy ra nếu không có họ. Chính hữu thể của họ là điều đáng kể trong mỗi hành động của họ, và những gì xảy ra sẽ hoàn thành một kế hoạch mà chính họ không thiết kế nhưng trong đó họ tìm thấy sự hoàn thành bất tận của mình. (20) Do đó, số phận của con người diễn ra trong thời gian, trong sự khởi đầu mới, đó là sự ra đời của họ, và một trong những hành động diễn cảm nhất của nó là việc họ bước vào bậc sống của chính họ (trong trường hợp chúng ta thảo luận là hôn nhân).
Cuối cùng, vì con người hoàn toàn được trao ban cho chính họ nên họ mắc nợ. Món nợ của chính họ với người khác không những buộc con người phải tìm kiếm người mà mình mang ơn mà còn có nghĩa là mỗi hành động của họ chỉ đúng trong chừng mực, một cách căn bản nhất, nó là sự đáp trả đối với đấng ban tặng khởi đầu. Thật vậy, vì hữu thể là một quà tặng, nên tính mắc nợ được phát biểu như lòng biết ơn: người ta chỉ có thể đón nhận món quà của chính mình và đáp lại nó một cách tự do, nhưng không. Tất cả chúng ta đều cần được yêu và yêu một cách nhưng không. Như thế, thay vì loại bỏ mối quan hệ của người ta với người khác và với Thiên Chúa, việc đáp lại một cách nhất thiết và tự do món quà hiện hữu và sự hiện hữu cụ thể của người ta làm cho những mối quan hệ này thực sự cảm kích và nhân bản. (21)
Nếu bốn chiều kích này (là quà tặng, các khả năng tâm linh, tính độc đáo của số phận riêng của người ta và tính mang nợ) mô tả đặc điểm của con người luôn là gì, thì việc tự hiến bản thân diễn ra trong hôn nhân sẽ chỉ đúng khi nó phản ảnh đặc tính quà tặng của bản chất con người. Vậy chúng ta hãy xem xét kỹ hơn việc hiến thân vốn phát sinh ra hôn nhân, một hồng ân được trao ban khi tuyên bố ưng thuận và được mời gọi tồn hữu trong suốt cuộc đời hôn nhân. Làm sáng tỏ bản chất của việc tự hiến này sẽ giúp chúng ta hiểu được tại sao mọi cuộc hôn nhân đều là một sự hiệp thông bất khả phân ly sự sống và tình yêu.
2.2. Hiến thân hoàn toàn và có tính bản vị
Như được diễn tả trong phụng vụ hôn nhân Kitô giáo, sự ưng thuận được cặp vợ chồng tuyên bố, trước tiên, là việc mỗi người tiếp nhận người kia, trùng khớp với việc phó thác bản thân cho người kia, và thứ hai, là lời hứa rằng việc tự hiến thân này cho người khác sẽ được củng cố với thời gian. (22) Do đó, món quà hỗ tương phát khởi từ sự hiệp thông giữa các bản vị trước hết thừa nhận rằng việc mình tự hiến thân là sự đáp trả sự hiện diện và tình yêu trước đó của người kia: “Anh nhận em làm vợ anh”. Việc “nhận” này là lời đáp trả đầy biết ơn của đôi vợ chồng đối với việc họ đã trao ban cho nhau trước đó, nghĩa là đối với việc họ được phép hiện hữu và được mời gọi kết hôn với nhau. Như thế, việc “nhận” của họ là “để hiện hữu” dưới hình thức sẵn lòng vâng phục để số phận này khai mở. Việc “muốn nó hiện hữu” này cũng bao hàm rằng cả người nam lẫn người nữ đều không phải là nguồn gốc của tình yêu hôn nhân của họ. Bởi vì họ là hữu hạn và số phận của họ đã được trao ban cho họ, nên sáng kiến luôn thuộc về Thiên Chúa, Đấng cho phép hai người được sinh ra, gặp nhau và hiến thân cho nhau. Có thể nói, họ chọn để được chọn. (23)
Trong bối cảnh văn hóa của chúng ta, điều quan trọng cần đề cập là việc vợ chồng tiếp đón nhau phát sinh ra sự kết hợp hôn nhân, vốn lớn hơn tổng số các thành viên của nó chính vì vợ chồng khác nhau về mặt giới tính. Chỉ với sự khác biệt về giới tính mà sự kết hợp vợ chồng mới là sự kết hợp của hai con người vốn là người khác không thể giản lược được về cả khía cạnh tinh thần lẫn thể xác của hữu thể họ, và chính vì sự khác biệt không thể giản lược này, một sự khác biệt thực sự và vĩnh viễn mở người này đón nhận người kia, mà kết hợp có thể sinh hoa trái. Thật vậy, sự hiệp thông đặc trưng của hôn nhân cần phải sinh hoa kết quả vì chỉ bằng cách này nó mới bảo tồn được bản chất của quà tặng và chính nó tham gia vào việc cho đi. Nếu không có sự cho đi hơn nữa này, điều sẽ xảy ra, thay vì sự kết hợp của hai người, là sự hấp thụ tan hòa của người này vào người kia, như chúng ta sẽ thấy ở phần sau. Tuy nhiên, việc kết hợp sinh hoa trái duy trì căn tính bản vị của mỗi người phối ngẫu bên trong sự hiệp thông giữa các bản vị không có nghĩa là sự kết hợp này không có tính chất biến đổi bản thân. Đón nhận người khác dị biệt hóa về mặt giới tính vào chính mình có nghĩa là chấp nhận trở thành chồng hoặc vợ. (24) Tương tự như vậy, gọi người khác là “vợ” hay “chồng” có nghĩa là chấp nhận không quan niệm mình nằm ngoài mối quan hệ của mình với người khác. Một người từ bỏ việc chỉ hiện hữu cho chính mình và chấp nhận mình hiện hữu cho người khác là điều định nghĩa được họ. Do đó, việc mỗi người phối ngẫu để người kia ở trong mình không những biến đổi mỗi người mà còn làm cho họ trở thành một, vì việc ở bên trong [indwelling]—ở trong người kia—là mức độ hợp nhất lớn nhất. (25) Hơn nữa, tính đồng thời, một mặt, của việc hiện hữu cho và trong người khác và mặt khác, của việc duy trì tính bản vị độc đáo của mình, có nghĩa là sự kết hợp hôn nhân được trao ban và được chấp nhận bởi cặp vợ chồng tự nó khác với họ, mặc dù nó không hiện hữu nếu không có họ.
Việc tiếp nhận người khác vào bản thân mình không hoàn toàn chân thực nếu người ta không chấp nhận hoàn toàn vì người khác. Tính toàn thể này đòi hỏi phải dâng hiến tất cả bản thân mình trong suốt cuộc đời và từ bỏ khả thể lấy lại món quà chính mình. Bởi vì bản chất của món quà đòi hỏi phải từ bỏ khả thể thu hồi món quà nên nó chỉ có thể được tặng một lần. Nếu việc trao tặng bản thân không phải là điều không thể thu hồi được thì nó chưa thực sự được trao đi. Trong tình yêu, người ta không chỉ cho mượn chính mình hoặc nguồn lực của mình: người ta cho đi chính mình. Do đó, dưới ánh sáng bản chất không thể thu hồi của việc tặng quà, chính sự hiện hữu của con người và sự hiệp thông mà nó tạo ra - chứ không chỉ là ý định của vợ chồng - mới khiến cho những lời thề hôn nhân chỉ có thể được thực hiện một lần. Việc tự hiến bản thân diễn ra trọn vẹn khi lời ưng thuận diễn tả món quà khẳng định tính độc đáo không thể thu hồi, không thể thay đổi được này – vốn là nguồn mạch vĩnh viễn của niềm vui hôn nhân. Tính bất khả tiêu, tính không thể hủy tiêu, là sự thật của việc cho đi. (26)
Vì người khác cũng hàm ý tính toàn thể bao trùm toàn bộ thời gian vợ chồng sống. Đây là lý do tại sao sự ưng thuận không chỉ bao gồm khoảnh khắc hiện tại trong đó nó được thốt ra và quá khứ đã đưa họ đến khoảnh khắc đó mà còn bao gồm cả tương lai, chưa được biết đến hoặc sở hữu. Cho đi chính mình và nhận lại người khác suốt cuộc đời, đó là điều mà mỗi người yêu nhau đều mong muốn một cách sâu sắc, người ta phải có khả năng tự do cho đi toàn bộ cuộc sống của mình. “Đó chính là yếu tính sự cao quý của con người, đó là dấu hiệu dứt khoát của việc họ giống Thiên Chúa, khi họ có thể đáp ứng bằng một quyền tự do siêu thời gian, trong đó họ từ bỏ toàn bộ sự hiện hữu trần thế của mình,” từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc tự nhiên. (27) Đặc tính quà tặng của con người có nghĩa là con người là một thụ tạo có thể hứa hẹn, nghĩa là, một thụ tạo, chính vì được trao ban cho chính họ, nên có thể tự do từ bỏ toàn bộ cuộc sống của mình. (28) Lời hứa bao gồm tương lai và bảo đảm rằng việc tự hiến trọn vẹn trong hiện tại sẽ được đổi mới “trong lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, lúc ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe”: “Anh sẽ yêu em... mọi ngày suốt đời anh.” Thay vì phát biểu một tính lãng mạn ngây thơ và ngu ngốc, lời hứa này thừa nhận thời gian trong bản chất của nó: việc dần dần nên trọn lời hứa chứa đựng trong món quà hiện hữu của người ta và ơn gọi mà họ đã được định sẵn để vươn tới. Vì thế, lời hứa về tình yêu bất khả hủy tiêu, tức là lời hứa chung thủy với thời gian, không dựa trên việc sở hữu, hiểu biết và làm chủ tương lai. Thay vào đó, nó dựa vào thiện ích của việc hiệp thông sự sống và tình yêu cũng như vào tính quà tặng của vợ chồng. (29) Nói một cách nghịch lý, tương lai thực sự có thể được chứa đựng trong sự ưng thuận và do đó được trao ban chính vì nó không bị sở hữu. Do đó, lời hứa chung thủy hệ ở việc quyết định không thể thay đổi của vợ chồng chỉ sống tương lai cùng với người kia và làm như vậy với niềm tin chắc rằng người ban tặng khởi đầu sẽ ứng nghiệm lời hứa trong ơn gọi họ sống việc hiệp thông sự sống và yêu thương. Do đó, tương lai không được coi là một mối đe dọa mà người ta phải xử lý. Đúng hơn, nó được chờ đợi một cách vui vẻ và bình an như việc đổi mới món quà khởi đầu của đôi vợ chồng cho nhau và món quà ơn gọi kết hôn. Thay vào đó, khi người ta muốn có tầm nhìn xa; tính toán và đo lường khả năng của bản thân trong việc khắc phục mọi hoàn cảnh có thể xảy ra một cách thành công; hoặc dành cho mình những khả thể khác trong trường hợp mọi việc diễn ra khác với mong đợi, người ta gián đoạn thời gian, nghĩa là, việc đổi mới sự tiếp nhận và đáp lại món quà, và thực hiện một kiểu tự sát tinh thần. Tuy nhiên, theo bản chất của món quà, vợ chồng sống cùng nhau chấp nhận mọi điều được trao ban vào mọi lúc, bất cứ khi nào nó được tặng mà không mưu toan nắm bắt trước.
Còn nữa