Người tị nạn mang thực phẩm đến một trung tâm phân phối do Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) điều hành tại Trại tị nạn Kakuma ở Turkana, Kenya, Thứ Ba, ngày 3 tháng 6 năm 2025. (Ảnh: Andrew Kasuku/AP.)


Charles Collins, giám đốc điều hành của tạp chí Crux, ngày 25 tháng 7, 2025, tường trình: Đức Giáo Hoàng Leo XIV nói rằng người di cư và người tị nạn “là những sứ giả của hy vọng” trong một thế giới u ám bởi chiến tranh và bất công, “ngay cả khi mọi thứ dường như đã mất hết”.

Trong thông điệp nhân Ngày Di cư và Tị nạn Thế giới lần thứ 111 – diễn ra vào ngày 4-5 tháng 10 – Đức Giáo Hoàng lưu ý rằng “bối cảnh hoàn cầu hiện nay đang bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, bạo lực, bất công và các hiện tượng thời tiết cực đoan, buộc hàng triệu người phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm nơi ẩn náu ở nơi khác”.

Biến cố này được thành lập vào năm 1914 và thường diễn ra vào cuối tuần cuối cùng của tháng 9, nhưng năm nay diễn ra vào cuối tuần đầu tiên của tháng 10 do các biến cố của Năm Thánh 2025, với chủ đề "Người di cư, những nhà truyền giáo của hy vọng".

Trong tuyên bố được đưa ra vào ngày 25 tháng 7, Đức Giáo Hoàng Leo XIII cho biết xu hướng phổ biến là chăm lo cho lợi ích của các cộng đồng hạn hẹp "đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với việc chia sẻ trách nhiệm, hợp tác đa phương, theo đuổi lợi ích chung và tình liên đới hoàn cầu vì lợi ích của toàn thể gia đình nhân loại".

Ngài nói thêm: "Viễn cảnh về một cuộc chạy đua vũ trang mới và sự phát triển của các loại vũ khí mới, bao gồm cả vũ khí hạt nhân, việc thiếu cân nhắc đến những tác hại của cuộc khủng hoảng khí hậu đang diễn ra, và tác động của bất bình đẳng kinh tế sâu xa khiến những thách thức của hiện tại và tương lai ngày càng trở nên khó khăn hơn".

Theo Cao ủy Liên hiệp quốc về Người tị nạn, có 123.2 triệu người di cư cưỡng bức trên thế giới vào cuối năm 2024. Cơ quan này cũng cho biết ước tính có 49 triệu người (40%) là trẻ em dưới 18 tuổi.

Các quốc gia hàng đầu nơi người tị nạn phát xuất là Venezuela (6.2 triệu), Syria (6 triệu), Afghanistan (5.8 triệu), Ukraine (5.1 triệu) và Nam Sudan (2.3 triệu). Trong khi đó, các quốc gia tiếp nhận người tị nạn hàng đầu là Iran (3.5 triệu), Thổ Nhĩ Kỳ (2.9 triệu), Colombia (2.8 triệu), Đức (2.7 triệu) và Uganda (1.8 triệu).

Đức Giáo Hoàng Leo XIII cho biết, khi đối diện với những viễn cảnh đáng sợ và khả năng tàn phá hoàn cầu, "điều quan trọng là phải có một khát vọng ngày càng lớn trong lòng mọi người về một tương lai hòa bình và tôn trọng phẩm giá của tất cả mọi người."

Ngài nói: "Hơn nữa, việc tìm kiếm hạnh phúc, và viễn cảnh tìm thấy nó bên ngoài quê hương của mình, chắc chắn là một trong những động lực chính thúc đẩy sự di cư của con người ngày nay".

Đức Giáo Hoàng cho biết mối liên hệ giữa di cư và hy vọng "rõ ràng" trong nhiều trải nghiệm di cư đương thời. Đức Leo nói: “Nhiều người di cư, người tị nạn và người di tản là những chứng nhân đặc ân của hy vọng. Thật vậy, họ thể hiện điều này hàng ngày qua khả năng phục hồi và niềm tin vào Thiên Chúa, khi họ đối diện với nghịch cảnh trong khi tìm kiếm một tương lai trong đó họ thoáng thấy sự phát triển toàn diện của con người và hạnh phúc là điều có thể”.

Ngài nói rằng “lòng can đảm và sự bền bỉ” của những người tị nạn “là minh chứng anh hùng cho một đức tin nhìn xa hơn những gì mắt chúng ta có thể thấy và cho họ sức mạnh để thách thức cái chết trên các tuyến đường di cư hiện đại khác nhau”.

Đức Giáo Hoàng nói: “Ở đây, chúng ta cũng có thể tìm thấy một sự tương đồng rõ ràng với kinh nghiệm của dân Israel lang thang trong sa mạc, những người đã đối diện với mọi nguy hiểm trong khi tin tưởng vào sự che chở của Thiên Chúa: ‘Người sẽ giải thoát bạn khỏi lưới chim và khỏi ôn dịch chết người; Người sẽ che chở bạn bằng đôi cánh của Người, và dưới cánh Người, bạn sẽ tìm được nơi ẩn náu; lòng thành tín của Người là khiên thuẫn. Bạn sẽ không sợ nỗi kinh hoàng ban đêm, hay mũi tên bay ban ngày, hay ôn dịch rình rập trong bóng tối, hay sự tàn phá tàn khốc giữa ban trưa’.

Ngài nói tiếp: “Người di cư và người tị nạn nhắc nhở Giáo hội về chiều kích hành hương của mình, luôn hành trình hướng về quê hương cuối cùng, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng, một nhân đức đối thần”.

Ngài nói thêm: “Một cách đặc biệt, người di cư và người tị nạn Công Giáo có thể trở thành những nhà truyền giáo hy vọng tại các quốc gia chào đón họ, mở ra những con đường đức tin mới ở những nơi sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô chưa đến hoặc khởi xướng đối thoại liên tôn dựa trên cuộc sống thường nhật và việc tìm kiếm các giá trị chung. Với lòng nhiệt thành và sức sống tinh thần của mình, họ có thể giúp hồi sinh các cộng đồng giáo hội đang trở nên cứng ngắc và nặng nề, nơi sự sa mạc hóa tinh thần đang tiến triển với tốc độ đáng báo động”.

Ngài cho hay: “Vì vậy, sự hiện diện của họ nên được nhìn nhận và trân trọng như một phúc lành thiêng liêng đích thực, một cơ hội để mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, Đấng ban năng lực và hy vọng mới cho Giáo hội của Người: ‘Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã tiếp đón các thiên thần mà không biết’ [Hr 13:2]”.

Đức Leo giải thích “Đồng thời, các cộng đồng chào đón họ cũng có thể là một chứng nhân sống động cho hy vọng, một chứng nhân được hiểu như lời hứa về một hiện tại và một tương lai, nơi mà phẩm giá của tất cả mọi người là con cái của Thiên Chúa được công nhận. Theo cách này, người di cư và người tị nạn được công nhận là anh chị em, là một phần của gia đình nơi họ có thể thể hiện tài năng của mình và tham gia đầy đủ vào đời sống cộng đồng”.