Ngày 07-09-2008
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh Thể, Hiệp Thông và Liên Đới
Vũ Văn An
04:01 07/09/2008
Thánh Thể, Hiệp Thông và Liên Đới

Tại Hội nghị các giám mục miền Campania tại Benevento (Ý) ngày 2 tháng Sáu năm 2002, để chuẩn bị cho Đại Hội Thánh Thể với chủ đề “Thánh Thể, Hiệp Thông và Liên Đới”, Đức Hồng Y J. Ratzinger (Đức đương kim Giáo Hoàng) đã được mời nói truyện. Ngài đã dựa vào chủ đề trên để trình bầy bài nói truyện hết sức sâu sắc của mình.

“Đức ái, Bình an”, Chính lý, Chính hành

Thời Giáo Hội sơ khai, đôi khi người ta gọi Phép Thánh Thể đơn giản chỉ là “đức ái” (agape) hay đơn giản hơn nữa là “bình an” (pax). Như thế, các Kitô hữu thời đó đã nói lên cách cảm kích mối dây liên kết hết sức chặt chẽ giữa mầu nhiệm Thiên Chúa hiện diện cách bí nhiệm và tập tục (praxis) phục vụ chính nghĩa hòa bình, tập tục Kitô hữu là hòa bình. Đối với các Kitô hữu tiên khởi, không hề có sự khác biệt giữa điều ngày nay ta hay phân biệt thành chính lý và chính hành (orthodoxy & orthopraxis), thường được hiểu là lý thuyết đúng và hành động đúng. Thực thế, khi đưa ra một phân biệt như thế, phần lớn vẫn cho rằng cái chữ chính lý kia cần phải bị khinh miệt: những người chủ trương duy trì lý thuyết đúng bị người ta coi chỉ là những con người hẹp hòi, cứng ngắc và bất khoan dung. Tuy nhiên, phân tích đến cùng, đối với những người có cái nhìn phê phán hơn về chữ chính lý, thì mọi sự đều tùy thuộc ở “hành động đúng” và lý thuyết được coi như một điều gì có đó để được thảo luận thêm. Đối với những ai có cái nhìn như thế, thì việc chủ yếu chính là hoa trái do lý thuyết đem lại, còn đường dẫn tới hành động đúng là điều dửng dưng. Những phân biệt như thế đều là những điều Giáo Hội sơ khai không thể hiểu cũng như chấp nhận được, vì Giáo Hội ấy hiểu đúng đắn rằng “chính lý” không có nghĩa là “lý thuyết đúng” nhưng có nghĩa là thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa cách chân thực. Giáo Hội ấy xác tín rằng mọi sự tùy thuộc vào việc phải nằm trong mối liên hệ đúng đắn với Thiên Chúa, vào việc phải nhận biết điều gì làm Người hài lòng và điều gì người ta có thể làm để đáp trả lại Người một cách đúng đắn. Chính vì thế, mà Israel đã yêu lề luật: nhờ lề luật, họ biết được ý Thiên Chúa, họ biết phải sống công chính ra sao và phải tôn vinh Thiên Chúa cách đúng đắn thế nào: bằng hành động theo ý Người, đem trật tự lại cho trần gian, mở cửa trần gian đón nhận thể siêu việt.

Chúa Kitô dạy cách tôn vinh Thiên Chúa, làm thế giới nên công chính

Niềm vui mới được các Kitô hữu khám phá ra là đây: là từ nay, khởi từ Chúa Kitô, họ hiểu Thiên Chúa cần được tôn vinh ra sao và chính nhờ lối tôn vinh ấy mà thế giới được trở nên công chính như thế nào. Điều khiến cho hai việc trên cần đi đôi với nhau, nghĩa là việc tôn vinh Thiên Chúa và việc thế giới nên công chính, đã được các thiên thần công bố vào đêm cực thánh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14). Vinh quang Thiên Chúa và bình an dưới thế là hai điều không thể tách biệt nhau. Nơi đâu Thiên Chúa bị loại bỏ, nơi ấy có gẫy đổ hoà bình trên thế giới; không có Thiên Chúa, không chính hành nào có thể cứu được chúng ta. Thực thế, không có chính hành nào có thể công chính mà lại tách rời khỏi nhận thức về điều đúng. Ý chí mà thiếu nhận thức chỉ là mù quáng và do đó hành động, chính hành chăng nữa, mà thiếu nhận thức cũng chỉ là mù quáng và sẽ dẫn tới hố thẳm. Sự xảo trá vĩ đại của chủ nghĩa Mácxít chính là đã nói với ta rằng ta đã suy tư về thế giới quá lâu rồi, nay đến lúc cần phải thay đổi nó. Nhưng nếu không biết hướng nào để thay đồi nó, nếu không hiểu ý nghĩa và mục đích nội tại của nó, thì thay đổi không thôi sẽ chỉ là hủy diệt, như ta đã thấy và còn tiếp tục được thấy. Tuy nhiên, chiều ngược lại cũng thế thôi: lý thuyết không thôi, không trở thành sức sống và hành động, chỉ là cái thứ tán gẫu lười lĩnh và do đó trống rỗng không hơn không kém. Chân lý hết sức cụ thể. Nhận thức và hành động kết hợp với nhau chặt chẽ, đức tin và sự sống cũng thế.

Đức Hồng Y cho hay chủ đề “Thánh Thể, Hiệp Thông và Liên Đới” sẽ là ba từ ngữ chủ yếu để Ngài khai triển thêm về những điểm vừa nêu.

1. Thánh Thể

Ngày nay, “Lễ Tạ Ơn” (the Eucharist) là tên thông thường nhất để chỉ Bí Tích Mình và Máu Chúa Kitô, một Bí Tích được Chúa Giêsu thiết lập vào đêm trước khi Người chịu khổ nạn, và nên gọi như thế. Thời Giáo Hội sơ khai, có nhiều tên để gọi Bí Tích này: agape (đức ái) và pax (bình an) ta vừa nhắc trên đây. Song song với hai tên ấy, còn các tên khác như synaxis (tụ họp, hội ngộ). Người Thệ Phản thường gọi nó là “Bữa Tối” vì họ muốn hoàn toàn quay về với nguồn gốc Thánh Kinh, theo gương Luther, người chỉ coi Sách Thánh là duy nhất có giá trị. Họ đúng một phần, vì nơi Thánh Phaolô, bí tích này được gọi là “Bữa Ăn Tối của Chúa”. Có điều đáng chú ý là tên gọi ấy đã mau chóng biến mất, và từ thế kỷ thứ hai trở đi, nó không còn được dùng nữa. Tại sao? Có lẽ tại vì người ta muốn tách khỏi Tân Ước, như Luther vốn nghĩ, hay vì một lý do khác?

Chắc chắn Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích này trong bối cảnh một bữa ăn, nói đúng hơn trong bữa ăn tối mừng Lễ Vượt Qua của người Do Thái, và bởi thế, ngay từ đầu, nó cũng đã được liên kết với việc tụ họp nhau để dùng bữa. Nhưng Chúa Giêsu không ra lệnh phải lặp lại bữa tối Vượt Qua, vốn được dùng làm cái khung cho Bí Tích. Vì đó không phải là bí tích của Người, không phải là quà phúc của Người. Dù sao, bữa tối Vượt Qua cũng chỉ được cử hành mỗi năm có một lần mà thôi. Do đó, việc cử hành Lễ Tạ Ơn đã tách biệt khỏi việc tụ họp nhau để dùng bữa, cùng nhịp với việc tách biệt khỏi Lề Luật, một việc lúc ấy cũng đang ló dạng, song song với việc quá độ bước vào một Giáo Hội gồm cả người gốc Do Thái lẫn Dân Ngoại, và nhất là Giáo Hội của Dân Ngoại. Như thế, mối liên kết với bữa ăn tối được coi như chỉ là ngoại thuộc, có khi còn là dịp gây hiểu lầm và lạm dụng nữa, như chính Thánh Phaolô đã mô tả đầy đủ trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô.

Phụng Vụ Lời Chúa, Kinh Tạ Ơn, Lời Truyền Phép

Như thế, khi mặc lấy khuôn hình đặc thù riêng của mình, Giáo Hội đã từ từ giải phóng quà phúc đặc thù của Chúa Kitô, một quà phúc mới mẻ và trường cửu, thoát khỏi bối cảnh cũ và cho nó một hình thức riêng biệt. Việc ấy xẩy ra được là nhờ việc nối kết với phụng vụ Lời Chúa, một phụng vụ vốn dựa theo mẫu mực hội đường; và cũng nhờ sự kiện này nữa là Lời Truyền Phép đã tạo nên cao điểm cho lời kinh tạ ơn vĩ đại, mà việc tạ ơn này vốn cũng đã được dẫn khởi từ các truyền thống hội đường và do đó tối hậu vẫn là từ chính Chúa, Đấng đã rõ ràng dâng lời tạ ơn và ca ngợi lên Thiên Chúa theo truyền thống Do Thái. Nhưng Người đã làm phong phú lời kinh tạ ơn kia một cách sâu xa hơn nhiều nhờ chính hiến lễ bằng thân xác và máu huyết mình.

Qua hành vi ấy, các Kitô hữu tiên khởi hiểu được rằng yếu tính trong biến cố Bữa Tiệc Ly không phải là việc ăn thịt chiên và các món ăn truyền thống khác mà chính là lời kinh ca ngợi vĩ đại mà lúc này đây tại tâm điểm của nó, đang chứa những lời của chính Chúa Giêsu. Với những lời ấy, Người đã biến cái chết của Người thành hiến lễ chính mình, đến nỗi ngày nay ta có thể dâng lời tạ ơn vì cái chết ấy. Vâng, chỉ lúc này ta mới có thể dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa mà không phải e dè chi, vì điều khủng khiếp nhất tức cái chết của Đấng Cứu Chuộc và cái chết của chính chúng ta, đã được hành vi yêu thương kia biến thành của lễ hiến sinh.

Lễ Tạ Ơn, Kinh Nguyện Thánh Thể

Bởi lẽ trên, Lễ Tạ Ơn đã được nhìn nhận là thực tại yếu tính của Bữa Tiệc Ly, điều mà nay ta gọi là Kinh Nguyện Thánh Thể, một kinh nguyện dẫn khởi trực tiếp từ lời kinh chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện vào đêm vọng cuộc khổ nạn của Người và là tâm điểm lễ hy sinh thiêng liêng mới, là động lực do đó nhiều Giáo Phụ đã gọi Lễ Tạ Ơn này là oratio (lời nguyện), là “hy lễ bằng lời”, là hiến lễ thiêng liêng, nhưng cũng đã trở thành vật thể và chất thể biến hình: bánh và rượu trở nên mình và máu Chúa Kitô, của ăn mới, nuôi sống chúng ta chờ ngày phục sinh, chờ cuộc sống trường sinh. Như thế, trọn bộ cơ cấu lời nói và yếu tố vật chất đã trở thành một dự ứng cho bữa tiệc cưới đời đời. Cuối cùng, ta cũng đã lại trở về với sự liên kết này. Ở đây, chỉ quan trọng một điều là hiểu được tại sao các Kitô hữu Công Giáo không gọi bí tích này là “Bữa Ăn Tối” mà là “Lễ Tạ Ơn” (the Eucharist). Giáo Hội sơ khai dần dần đem lại cho bí tích này hình thức đặc thù của nó và chính qua cách đó, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội nhận diện rõ ràng và qua biểu hiệu đã mô tả được yếu tính chân thực của bí tích, một bí tích chính Chúa Giêsu đã thực sự thiết lập vào đêm hôm đó.

Chính nhờ khảo sát diễn trình qua đó bí tích Thánh Thể dần dần lấy được hình thức đặc thù của mình, nên ta hiểu được một cách tốt đẹp mối liên kết sâu xa giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền. Thánh Kinh, xét thuần túy theo bối cảnh lịch sử, đã không thông truyền đầy đủ cho ta cái nhìn về yếu tính. Cái nhìn ấy chỉ có được nhờ thực hành sống động của Giáo Hội biết sống Thánh Kinh, biết nắm được ý định sâu xa của nó và làm ta tới gần được nó.

2. "Hiệp Thông” (Communio)

Ngày nay, từ ngữ thứ hai trong chủ đề, tức Hiệp Thông, đã trở thành thời thượng. Thực thế, nó là một trong các từ ngữ sâu sắc nhất và có đặc điểm hơn hết trong truyền thống Kitô giáo. Chính vì lý do này, điều rất quan trọng là phải hiểu nó cách rộng dài hết sức. Ở đây, Đức Hồng Y kể lại một kinh nghiệm bản thân. Hồi cùng một số bạn hữu, nhất là Henri de Lubac, Hans Urs von Balthasar, Louis Bouyer, Jorge Medina, có ý định ra một tạp chí để đào sâu và khai triển gia tài Công Đồng để lại, các ngài loay hoay đi tìm tên thích hợp để đặt cho tờ tạp chí, mà phải là một chữ đơn mà thôi nhưng có thể chuyên chở được mục đích của tờ báo. Năm 1965, năm cuối cùng của Công Đồng, đã có một tập san dùng làm tiếng nói thường trực cho Công Đồng và tinh thần của nó rồi, đó là tập san Concilium. Hans Kung nghĩ: ông đã khám phá ra sự đồng nghĩa giữa hai hạn từ ekklesia (Giáo Hội) và concilium (công đồng). Vì gốc Hy Lạp của hai từ ngữ này đều là kalein (triệu tập). Từ ngữ đầu, tức ekklesia, có nghĩa là triệu tập, mà từ ngữ thứ hai, tức concilium, cũng có nghĩa là cùng triệu tập. Cho nên, xét trong yếu tính, hai từ ngữ ấy chỉ về cùng một sự vật. Căn cứ vào mối liên hệ nguyên ngữ này, ta có thể nói hai hạn từ Giáo Hội và Công Đồng đồng nghĩa với nhau và trong bản chất của mình, Giáo Hội được coi như một Công Đồng liên tục của Thiên Chúa trong trần gian. Cho nên, phải quan niệm Giáo Hội theo nghĩa “công đồng” này và được “thực tại hóa” dưới hình thức một Công Đồng; và ngược lại, Công Đồng cũng phải được quan niệm như một thể hiện sâu sắc nhất của “Giáo Hội”, nghĩa là Giáo Hội trong hình thức cao cả nhất của mình.

Đức Hồng Y cho hay trong những năm tiếp sau Công Đồng, Ngài cũng suy nghĩ theo quan điểm ấy trong một thời gian, nghĩa là coi Giáo Hội như một công đồng thường trực của Thiên Chúa trong trần gian, một quan điểm thoạt mới nhìn hết sức thông sáng. Ngài cho rằng không nên bỏ qua các hậu quả thực tiễn của lối quan niệm này và tính lôi cuốn khá tức khắc của nó. Tuy thế, dù Ngài cho cái nhìn của Hans Kung chắc chắn có đúng và nghiêm chỉnh, nhưng đồng thời Ngài cũng thấy cần phải chỉnh đốn quan điểm ấy một cách đáng kể. Và Ngài trình bầy vắn tắt một số điểm Ngài đã nghiên cứu thấy vào dịp đó. Các tìm tòi triết học và thần học của Ngài về ý nghĩa của hai hạn từ “giáo hội” và “công đồng” thời xưa cho Ngài thấy: công đồng chắc chắn là một thể hiện quan trọng và sinh tử của Giáo Hội, nhưng trên thực tế, Giáo Hội là một cái gì khác, yếu tính Giáo Hội sâu sắc hơn thế nhiều.

“Hiệp Thông” (Koinonia) sống Lời sự sống

Công đồng là điều Giáo Hội chủ trương, nhưng Giáo Hội không phải là một công đồng. Giáo Hội không hiện hữu chủ yếu để mà bàn luận, nhưng để sống Lời từng được ban cho ta. Nên Ngài nghĩ hạn từ diễn tả được quan niệm căn bản ấy, một quan niệm chuyên chở được yếu tính của chính Giáo Hội, chính là koinonia - hiệp thông. Cho nên, không nên miêu tả cơ cấu của Giáo Hội bằng hạn từ “công đồng” mà đúng hơn phải bằng hạn từ “hiệp thông”. Khi Ngài công khai đề nghị các ý niệm ấy trong tác phẩm xuất bản năm 1969, tựa là The New People of God (Dân Mới Của Chúa), thì ý niệm hiệp thông chưa được phổ biến lắm trong các cuộc thảo luận công công về thần học và giáo hội học. Thành thử, các ý niệm của Ngài về chủ đề ấy chỉ được ít người xem sét. Tuy nhiên, đó là những ý niệm quyết định hướng dẫn Ngài trong việc tìm cho ra cái tên thích hợp cho tờ tạp chí mới, và quả chúng đã dẫn Ngài tới việc đặt tên cho tờ tạp chí ấy là Tập San Communio (Hiệp Thông).

Chính ý niệm này thì mãi tới năm 1985 mới được nhìn nhận rộng rãi tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới. Cho tới lúc đó, thuật ngữ “Dân Chúa” thịnh hành hơn trong tư cách là quan niệm mới chính yếu dùng để mô tả Giáo Hội, và được mọi người tin là có năng lực tổng hợp được các ý định của chính Công Đồng Vatican II. Niềm tin này có thể đúng nếu thuật ngữ này được sử dụng theo nghĩa Thánh Kinh đầy đủ nhất của nó và theo bối cảnh rộng lớn và chính xác trong đó Công Đồng đã dùng nó. Tuy nhiên, khi một từ ngữ chính đã trở thành một khẩu hiệu (slogan), ý nghĩa của nó chắc chắn sẽ giảm đi; và quả thực, nó đã bị tầm phào hóa (trivialized).

Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1985

Do đó, Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1985 đã đi tìm một khởi đầu mới bằng cách tập chú vào từ ngữ “hiệp thông”, một từ ngữ trước nhất đã được dùng để chỉ tâm điểm Thánh Thể của Giáo Hội, và đồng thời cũng đã trở lại với cái hiểu về Giáo Hội như là địa điểm thân mật nhất cho cuộc gặp gỡ giữa Chúa Kitô và nhân loại, trong hành vi tự hiến thân Người cho ta.

Không thể tránh được việc từ ngữ có tính nền tảng vĩ đại này của Tân Ước, một khi bị cô lập và được sử dụng làm khẩu hiệu, cũng sẽ mất đi phần nào ý nghĩa và có khi còn bị tầm phào hóa. Quả thế, ngày nay, ta thấy có những người nói tới “một giáo hội học về hiệp thông” (ecclesiology of communion) mà họ thường hiểu như hai điều sau: (1) họ ủng hộ một giáo hội học “đa nguyên”, gần như theo nghĩa liên hiệp “liên bang” đối nghịch với điều họ cho là quan niệm tập quyền về Giáo Hội; (2) trong các trao đổi hỗ tương giữa các giáo hội địa phương, họ muốn nhấn mạnh tới các hình thức thờ phượng đa văn hóa trong phụng vụ, trong kỷ luật và trong tín lý.

Ngay ở những nơi các khuynh hướng chưa được khai triển trong chi tiết, một cách tổng quát, người ta vẫn hiểu “hiệp thông” theo nghĩa bề ngang (horizontal): theo lối này, nó phát sinh từ một hệ thống nhiều cộng đoàn hợp lại. Quan niệm Giáo Hội như một cơ cấu có tính cộng đoàn như thế không khác bao nhiêu so với quan niệm coi Giáo Hội như công đồng đã nói ở trên. Ý niệm hàng ngang là ý niệm trổi vượt. Nó nhấn mạnh tới sự tự quyết của các giáo hội đặc thù trong lòng cộng đồng rộng lớn gồm nhiều giáo hội khác nhau.

Lẽ dĩ nhiên, quan điểm ấy có điểm đúng. Tuy nhiên, xét trong nền tảng, nó không đúng và nếu đi theo quan điểm này, thì các điều sâu sắc thực sự của Tân Ước cũng như Vatican II và cả Thượng Hội Đồng năm 1985 sẽ tiêu tan hết. Để làm sáng tỏ ý nghĩa trung tâm của ý niệm “hiệp thông”, Đức Hồng Y Ratzinger muốn dùng hai đoạn văn lớn nói về hiệp thông trong Tân Ước. Đoạn đầu trích từ Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 10, câu 16-17, trong đó Thánh Phaolô nói với ta: “Khi ta nâng chén tạ ơn mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần (bản tiếng Ý dùng chữ Communion) vào Máu Ðức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”.

Chiều thẳng của Phép Thánh Thể

Quan niệm hiệp thông trước hết bắt nguồn rất vững chắc trong Bí Tích Thánh Thể. Đó là lý do tại sao ngày nay ta vẫn sử dụng ngôn ngữ của Giáo Hội để gọi rất đúng hành vi tiếp nhận bí tích này là “hiệp lễ” (to communicate). Nhờ thế, cái ý nghĩa thực tiễn xã hội của biến cố bí tích này cũng trở nên tức khắc hiển nhiên và điều ấy, xét một cách triệt để, không tài nào thực hiện được với cái nhìn hoàn toàn chiều ngang. Ở đây, chúng ta được dạy rằng nhờ bí tích này, một cách nào đó, chúng ta bước vào hiệp thông với máu Chúa Giêsu Kitô. Nhưng theo quan niệm Hi-bá-lai, máu tượng trưng cho “sự sống”. Như thế, điều được khẳng định ở đây là sự hoà nhập sự sống của ta vào sựống của Chúa Kitô.

Trong bối cảnh Thánh Thể, “Máu” rõ ràng cũng tượng trưng cho “quà phúc” (gift), cho một hiện hữu tự đổ mình ra, tự hiến mình vì ta và cho ta. Như thế, hiệp thông máu cũng là đi vào sự năng động của sự sống ấy, vào “máu đang đổ ra” kia. Hiện hữu ta “được năng động hóa” đến độ mỗi người chúng ta đều trở nên một hữu thể vì người khác, như đã thấy nơi Trái Tim rộng mở của Chúa Kitô.

Xét theo một khía cạnh, những lời đọc trên bánh lại còn đáng làm ta ngạc nhiên hơn nữa. Những lời này nói tới một “hiệp thông” với xác Chúa Kitô mà Thánh Phaolô vốn ví với sự kếp hợp giữa người đàn ông và người đàn bà (xem 1Cor 6:17ff; Eph 5:26-32). Thánh Phaolô cũng phát biểu điều này từ một cách nhìn khác khi Ngài viết: tất cả chúng ta đều lãnh nhận một tấm bánh và cùng một tấm bánh. Điều ấy đúng một cách lạ lùng: “Bánh”, manna mới mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, quả là một và cùng là một Chúa Kitô, được dành cho mọi người.

Chúa kết hợp ta với chính Người

Quả thật, chúng ta tiếp nhận chỉ một và cùng một Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể, hay đúng hơn, chính Chúa Giêsu tiếp nhận ta và làm ta hoà nhập vào trong chính Người. Thánh Augustinô diễn tả điều đó bằng một đoạn văn được Ngài coi như một thị kiến: “hãy ăn bánh người của người mạnh khỏe; con không biến Ta thành ra con, nhưng Ta sẽ biến con thành ra Ta”. Nói cách khác, khi ta tiêu thụ của nuôi thân xác, thì của nuôi ấy được thân xác hấp thụ, trở nên một phần thân xác ta. Nhưng bánh này khác hẳn. Nó lớn lao và cao cả hơn ta. Không phải ta hấp thụ nó mà là nó hấp thụ ta, đến nỗi, một cách nào đó, ta trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô”, như lời Thánh Phaolô nói, nghĩa là thành chi thể trong thân xác Người, nên một với Người.

Tất cả chúng ta đều “ăn” cùng một đấng, chứ không phải chỉ là cùng một sự; nhờ thế, tất cả chúng ta đều được bứng ra khỏi những con người cá thể khép kín để được đặt vào trong một người khác, lớn lao hơn. Tất cả chúng ta đều được hấp thụ trong Chúa Kitô và do đó, nhờ hiệp thông với Chúa Kitô, được kết hợp với nhau, trở nên như nhau, một sự vật duy nhất ở trong Người, chi thể lẫn của nhau.

Hiệp thông với Chúa Kitô cũng là hiệp thông với nhau. Chúng ta không còn lẻ loi đối với nhau, không còn người này tách biệt khỏi người kia nữa; mà nay mỗi chúng ta đã trở nên thành phần của người khác; mỗi người tiếp nhận hiệp thông đều là “xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi” (St 2:23).

Sự kết hợp xã hội có tính phổ quát

Cho nên, nền linh đạo thực sự về hiệp thông, nhìn trong chiều sâu Kitô học của nó, nhất thiết phải có đặc tính xã hội, như Henri de Lubac đã mô tả một cách tuyệt diệu hơn nửa thế kỷ trước đây, trong tác phẩm Catholicism (Đạo Công Giáo) của mình.

Vì lý do này, khi tôi đọc kinh hiệp lễ, tôi phải hoàn toàn hướng về Chúa Kitô, để tôi được Người biến cải, được ngọn lửa ‘hỏa hào’ của Người thiêu đốt tôi. Nhưng cũng chính vì lý do này, tôi phải luôn luôn ý thức rõ ràng rằng qua cách đó, Người kết hợp tôi cách hữu cơ với mọi người khác cũng đang tiếp nhận Người, với người qùy cạnh tôi đây, người mà tôi có thể chắng thích chút nào; mà còn cả với những người ở tận cuối chân trời, mãi tận Á Châu, Phi Châu, Mỹ Châu hay ở chốn xa xăm nào khác.

Trở nên một với họ, tôi phải học để biết cách mở rộng con người mình hướng về họ và để mình tham dự vào các hoàn cảnh của chính họ. Đó là bằng chứng chứng minh tính chân thực của tình yêu tôi dành cho Chúa Kitô. Nếu tôi kết hợp nên một với Chúa Kitô, tôi cũng nên một với người lân cận của tôi, và sự nên một này không chỉ giới hạn vào thời điểm hiệp lễ mà thôi, mà chỉ là bắt đầu ở đấy. Nó trở thành sự sống, trở thành thịt và máu, trong mọi kinh nghiệm hàng ngày của chia sẻ cuộc đời với người lân cận của tôi. Như thế, các thực tại cá biệt trong sự hiệp thông và trong tư cách là thành phần trong đời sống Giáo Hội của tôi đã được liên kết với nhau một cách không thể nào tháo gỡ ra được nữa.

Giáo Hội không được hạ sinh từ việc liên hiệp các cộng đồng. Việc hạ sinh ra Giáo Hội khởi đầu từ một tấm bánh, với một Đức Chúa và từ Người, từ khởi thủy và khắp mọi nơi, một thân xác đã được dẫn khởi từ một tấm bánh. Giáo Hội trở nên một không nhờ một việc cai trị tập quyền mà nhờ một tâm điểm chung mở toang cho mọi người, vì tâm điểm ấy không ngừng rút tỉa nguồn gốc từ một Đức Chúa duy nhất, Đấng nhờ một tấm bánh, đã tượng hình Giáo Hội thành một cơ thể duy nhất. Chính nhờ vậy, sự hợp nhất của Giáo Hội có một chiều sâu lớn lao hơn bất cứ sự hợp nhất nào của con người mọi thời. Chính khi hiểu nó như tình thân mật kết hợp mỗi người với Chúa, mà Phép Thánh Thể cũng trở thành một bí tích có tính xã hội rất cao độ.

Thánh Martin de Porres, á thánh Têrêxa thành Calcutta

Các vị thánh xã hội vĩ đại, trên thực tế, vẫn luôn là những vị thánh vĩ đại của Phép Thánh Thể. Đức Hồng Y Ratzinger muốn nhắc tới hai điển hình được chọn một cách tình cờ.

Trước nhất là Thánh Martin de Porres, sinh tại Lima, Peru, năm 1569, con trai một người mẹ Phi Mỹ (Afro-American) và một nhà qúy tộc Tây Ban Nha. Thánh Martin sống nhờ việc thờ lạy Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể, sống trọn nhiều đêm cầu nguyện trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh trong Nhà Tạm, trong khi cả ngày chăm sóc không biết mệt mỏi các người bệnh và trợ giúp những người bị xã hội ruồng bỏ, khinh ghét, những người được Ngài tự đồng hóa với do chính gốc gác thấp hèn của mình. Cuộc gặp gỡ Chúa Kitô, Đấng hiến mình cho ta trên thánh giá, làm chúng ta trở thành chi thể của cùng một thân thể nhờ cùng một tấm bánh, một biến đổi mà nếu biết đáp ứng đầy đủ, sẽ thúc đẩy ta đến chỗ phục vụ người đau khổ, chăm sóc người yếu ớt và bị lãng quên. Thời ta, có á thánh Têrêxa thành Calcutta. Bất cứ nơi đâu Ngài muốn mở nhà để các nữ tu của mình chăm sóc người sắp chết và người bị bỏ rơi, điều đầu tiên Ngài đòi phải có là chỗ đặt Nhà Tạm, vì Ngài biết rõ chỉ bắt đầu từ đó, ta mới có sức mạnh để phục vụ mà thôi.

Bất cứ ai nhận ra Chúa trong Nhà tạm, đều nhận ra Người trong người đau khổ và thiếu thốn; họ ở trong số những người mà quan tòa trần gian sẽ phán: “Ta đói, các con cho Ta ăn; Ta khát, các con cho Ta uống; Ta trần truồng, các con cho Ta mặc, Ta bệnh, các con đến thăm Ta, Ta ngồi tù, các con đến với Ta” (Mt 25:35).

Đoạn Tân Ước quan trọng thứ hai liên quan tới hạn từ “hiệp thông” là trích từ đầu Thư thứ nhất của Thánh Gioan (1:3-7). Trong đoạn này, Thánh Gioan nói đến cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời Nhập Thể, cuộc gặp gỡ mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài. Ngài nói rằng Ngài thông truyền điều chính mắt Ngài đã được chứng kiến và chính tay Ngài đã được đụng tới. Cuộc gặp gỡ ấy ban cho Ngài ơn koinonia (hiệp thông) với Chúa Cha và Con của Người là Chúa Giêsu Kitô. Ơn hiệp thông ấy đã trở thành ơn hiệp thông thực sự với Thiên Chúa hằng sống. Theo Thánh GIoan, ơn hiệp thông này đã mở mắt cho Ngài và nhờ thế, Ngài được sống trong ánh sáng, nghĩa là, trong chân lý của Thiên Chúa, một chân lý được phát biểu qua giới răn độc đáo và mới mẻ, một giới răn vượt trên mọi giới răn khác, đó là giới răn yêu thương. Cho nên, hiệp thông với “Lời sự sống” là trở thành sự sống công chính, là trở thành tình yêu. Nhờ thế, nó cũng trở thành hiệp thông qua lại: “Nếu ta đi trong ánh sáng… ta cũng sẽ hiệp thông với nhau” (1Ga 1:7).

Đoạn văn trên cũng cho thấy cùng một luận lý về hiệp thông mà ta đã thấy nơi Thánh Phaolô: hiệp thông với Chúa Giêsu trở thành hiệp thông với chính Thiên Chúa, hiệp thông với ánh sáng và với tình yêu; nhờ cách đó, nó cũng trở thành sự sống công chính, và những điều ấy kết hợp ta với nhau trong chân lý. Chỉ khi nào chịu nhìn hiệp thông dưới khía cạnh sâu rộng này, ta mới nói truyện được với thế gian.

(còn tiếp)
 
Sửa Lỗi cho nhau
LM Phêrô Nguyễn Hương
17:19 07/09/2008
Sửa Lỗi cho nhau

Chúa Nhật XXII thường niên

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói tới một trách nhiệm của người kitô hữu về việc sửa lỗi cho người anh em mình. Một công việc rất tế nhị nhưng là cần thiết.

Người Lamã nói rằng: errare umanum est! Làm người là sai lỗi. Người Việt Nam cũng có câu tương tự: Nhân vô thập toàn, không ai hoàn hảo cả. Sinh ra trên đời này mỗi người đều có xã hội tính, nên ai có liên hệ và có trách nhiệm đối với người khác, ai cũng cần đến sự giúp đỡ của người khác để hoàn thiện mình, để sống tốt hơn, nhất là khi sai lỗi, lầm lạc, ai cũng cần đến sự hướng dẫn, lời khuyên và lời cầu nguyện của người khác.

Việc sửa lỗi là một công việc khó khăn và tế nhị. Nên hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một bí quyết vàng để thực hiện công việc này qua từng bước sau: Trước hết: «Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi». Đây là bước quan trọng nhất, khi sự thật còn ở trong bóng tối, còn kín, chỉ có hai người biết thôi. Vì thế không được phép nói cho người thứ ba biết sai lầm của người khác khi ta chưa giúp họ. Nếu bước này không thành công thì mới đi bước tiếp: «Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa… Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Nếu nó không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo». Đây là bước kế tiếp phải làm trong tinh thần xây dựng, yêu thương và hiệp thông trong cộng đoàn. Nhất là xin Cộng đoàn cầu nguyện để ơn Chúa biến đổi lòng của họ, để họ cải tà quy chính. Khi họ không nghe ai nữa thì chỉ còn cách duy nhất là hãy phó thác họ cho lòng từ bi của Thiên Chúa.

Trong thực tế, nhiều lúc chúng ta làm ngược lại với hướng dẫn trên của Chúa. Thay vì chúng ta phải giữ kín sự thật và thuyết phục người anh em sai lỗi trước khi nói người thứ ba cùng giúp, thì chúng ta lại nói toạc móng heo lầm lỗi của họ ra, làm ai cũng biết. Như thế sẽ làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Cần phân biệt việc sửa lỗi hoàn toàn khác với việc nói xấu người khác. Sữa lỗi là một việc nên làm, còn nói xấu là một trọng tội. Vì thế chúng ta cần tế nhị, khôn ngoan và đúng lúc.

Câu chuyện sau đây nói lên thái độ tế nhị cần có khi sửa lỗi cho nhau:

Ðức Hồng y Roncalli (sau là Giáo hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực kì ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:

- Tôi không biết phải cám ơn ngài thế nào. Nhờ đâu tôi được ngài ưu ái như thế? Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:

- Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta mới nhận ra là mình thiếu quần áo. (hy vọng trong cộng đoàn chúng ta không có cô nào được người khác cho ăn táo trong nhà thờ nhé!).

Người Ái nhĩ lan có một lời nguyện rất hay mà tôi rất thích: God grant me the Serenity to accept the things I cannot change, Courage to change the things I can, and Wisdom to know the difference.

Chúng ta có thể thưa với Chúa là: Lạy Chúa xin cho con sự thanh thản để chấp nhận những điều con không thể thay đổi, sự Can đảm để thay đổi những điều con có thể và sự Khôn ngoan để phân biệt sự khác biệt. Amen.
 
Quan niệm Đức Ái theo Thánh Phaolô
LM Phêrô Nguyễn Hương
17:21 07/09/2008
Chúa nhật 23 thường niên

Quan niệm Đức Ái theo Thánh Phaolô

Chúng ta đang sống trong năm Thánh Phaolô, năm đặc biệt chú ý tới vị Tông Đồ Dân Ngoại, ngài nổi bật như một ngôi sao sáng trong lịch sử Giáo hội. Và rất thích hợp để nói về giáo huấn của Ngài trong thánh lễ hôm nay. Sự nghiệp và giáo huấn của Ngài thật là phong phú và sâu sắc, chúng ta chỉ dừng lại ở đây quan niệm về Tình yêu hay Đức Ái theo Thánh Phaolô.

Danh từ tình yêu (love, amore, caritas) được dùng rất nhiều từ môi miệng chúng ta, từ báo chí, phim ảnh. Nhưng ngày hôm nay khái niệm về tình yêu đã bị nhiều người hiểu sai và làm dụng.

Tôi đọc trên báo điện tử của Hội Đồng Giáo Mục Việt Nam, tác giả Nguyễn Lan Hải đã tóm tắt những ngộ nhận đáng tiếc về tình yêu nơi nhiều bạn trẻ hôm nay: - Tình yêu là sự cuốn hút. - Tình yêu là chiếm hữu. - Tình yêu là tiền tài. - Tình yêu là sự thương hại. - Tình yêu là tình dục.

Chính vì quan niệm méo mó này, nên nhiều người suốt cả đời đi tìm tình yêu mà không gặp. Nhiều bạn trẻ thay người yêu như thay áo vậy. Nhiều cặp vợ chồng trẻ tháng trước đám cưới linh đình vui vẻ, anh nói em nghe, nhưng tháng sau thì anh em nói, cả làng cùng nghe. Tuần đầu trăng mật, tuần sau giập mật !!! Nhiều gia đình đang êm ấm, nhưng chỉ một cú điện thoại, một lá thư của người thứ ba, thế là mọi sự đổ vỡ, mọi sự được giải quyết bằng tờ giấy li dị và chia tài sản.

Vậy thì theo Thánh Phaolô, Tình Yêu là gì, phải yêu người khác như thế nào?

Bài đọc II mà chúng ta vừa nghe là những lời thật tuyệt vời: «Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau». Nghĩa là chúng ta đừng mắc nợ nhau về tiền bạc, vật chất, ai mắc nợ thì phải trả. Nhưng hãy mắc nợ nhau về tình thương, về đức ái. Chúng ta hãy yêu thương nhau. Tình yêu là cốt lõi của Kitô giáo. Chính Phaolô nói: «Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật». Tình yêu làm cho chúng ta được hạnh phúc đích thực. Sống không có tình yêu, không có lòng nhân ái, thì dù chúng ta có nhà lầu, xe hơi, tiện nghi vật chất dư dã, vẫn cũng cảm thấy không hạnh phúc và vui vẻ. Các nhà khoa học Mỹ đã nghiên cứu và cho thấy điều đó: 12 % dân Mỹ bị stress và bị tâm thần, không phải vì họ nghèo đói về vật chất và vị họ bị cô đơn và không được yêu thương chia sẽ.

Đối với thánh Phaolô tình yêu không phải là một sự trao đổi kinh tế tiền bạc, không phải là một sự chiếm hữu ích kỷ, không phải là một sự tìm kiếm mình trong người khác. Nhưng là một tình yêu vô vị lợi, có trách nhiệm và hoàn toàn vì người khác, kể cả hiến mạng vì người mình yêu. Tình yêu đó bắt nguồn và luôn dựa trên chính tình yêu Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thể hiện trên Thập giá.

Tình Yêu, Đức Ái gắn liền với việc tuân giữ lề luật, là sống có trách nhiệm và biết tôn trọng hạnh phúc của người khác: «Đó là chớ có ngoại tình»: vợ của người ta chớ có được lớ rớ tới, không được quan hệ tình dục bừa bãi. Vì hậu quả của nó là phá hoại phúc người khác và mang bệnh tật cho mình. Quan hệ tình dục bừa bãi dễ sinh ra tội phá thai, tức là giết người. Đó là trọng tội và còn có vạ kèm theo cho ai làm điều đó. Nên Thánh Phaolô nói tiếp: «Chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn lề luật». Những lời chúng ta phải suy gẫm nhiều lần. Lỗi những điều răn này là chúng ta lỗi Đức Ái cách nghiêm trọng. Thấy người khác thành công mình phải mừng cho họ chứ đừng có ghen tỵ và tìm cách đạp đổ. Thấy người khác gặp đau khổ thì không lấy làm vui mừng nhưng là nâng đỡ ủi an họ. Vẽ đẹp của người kitô hữu là ở đó.

Đối với Phaolô, Đức ái là căn bản, là chính yếu của đời sống kitô hữu. Trong một lá thư khác, thánh Phaolô quả quyết: «Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên thần đi nữa, mà không có đức mến (Caritas) thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi có được ơn nói tiên tri và biết hết được mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả tài đức đến chuyển núi rời non, mà không có đức mến (Caritas), thì tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có đem hết cả gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu chết, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,1-13).

Tất cả chúng ta đều được mời gọi để sống Đức ái đó theo gương thánh Phaolô, như Ngài đã theo Đức Kitô, Người đã yêu chúng ta đến cùng và đã hiến mạng vì chúng ta trên Thập giá. Xin Thánh nhân cầu xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta thực hành những giáo huấn này vào trong đời sống chúng ta. Amen.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:46 07/09/2008
NGÔI SAO TRÊN NÚI

N2T


Ngày xưa, có một người đối với bản thân mình thì rất nghiêm khắc, khi trên không ngả bóng mặt trời thì tuyệt đối không ăn không uống.

Ông trời hình như cũng đồng ý với hành vi của ông ta, nên trên đầu một ngọn núi bên cạnh thường thấy một ngôi sao sáng lấp lánh rất rõ ràng, mọi người đều có thể nhìn thấy, mặc dù họ không biết ngôi sao ấy mọc lên như thế nào.

Một hôm, ông ta quyết định trèo lên ngọn núi ấy, có một bé gái trong xóm kiên quyết đòi cùng đi với ông ta, thời tiết rất nóng nực, trèo lên núi chưa được bao lâu thì cả hai đều cảm thấy lưỡi khô miệng đắng, ông ta muốn em bé gái uống chút nước, nhưng em bé bày tỏ thái độ là ông ta phải uống trước bằng không thì em bé không uống.

Nhưng đáng thương hại thay, bây giờ lên xuống đều khó, ông ta đương nhiên không muốn phạm quy giới của mình, nhưng cũng không đành lòng để em bé gái phải khát nước chịu khổ. Cuối cùng, vò đầu bứt tai mà uống nước, em bé gái cũng uống để giải khát.

Uống nước xong, ông ta không dám ngước mặt nhìn lên trời, bởi vì trong lòng rất sợ sẽ không nhìn thấy ngôi sao...

(Trích: Bài ca của loài ếch, phần tu đức)

Suy tư:

Tất cả mọi giới luật đều quy về lòng bác ái, bằng không thì luật sẽ không những giết chết tâm hồn con người, mà còn là cơ hội cho những kẻ có quyền lợi dụng luật để làm điều bất nhân tàn ác...

Có một vài người Ki-tô hữu lo giữ luật hình thức bên ngoài nên thiếu đi tinh thần bác ái: họ đi cho nhanh để kịp giờ lễ nên làm ngơ với một cụ già run rẩy đi qua đường; họ vui vẻ móc túi bỏ tiền thau trong nhà thờ kẻo người ta nói mình keo kiết với Chúa, nhưng lại khó chịu quạu cọ với người ăn xin bên lề đường trước nhà thờ, dù họ không bố thí cho kẻ ăn xin đồng nào...

Có một vài cha sở đưa nội quy nhà xứ ra cho giáo dân đọc, đưa thời gian tiếp khách, xưng tội, hôn phối và các vấn đề khác viết lên tấm bảng đồng thật bắt mắt, rồi gắn ngay cổng nhà xứ, và giáo dân cứ thế phải đúng giờ đúng giấc đúng việc mới được gặp cha sở, ngoài giờ hành chánh thì khỏi.v.v...các ngài biến nhà xứ thành cơ quan hành chánh của phường xã, biến nhà thờ thành viện bảo tàng để giáo dân đúng giờ đến tham quan...

Luật lệ là để làm cho tinh thần bác ái được lan tỏa đến mỗi người giữ luật, và làm cho con người ta biết tôn trọng nhau hơn.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:47 07/09/2008
N2T


24. Tội ác và suy tư cầu nguyện không thể song song tồn tại.

(Thánh Maglorius)
 
Thánh ca: Mẹ chào đời
Sơn Ca Linh - Xuân Văn
23:56 07/09/2008
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
100 ngàn tín hữu tham dự thánh lễ với Đức Thánh Cha tại Sardegna
LM Trần Đức Anh, OP
23:26 07/09/2008
CAGLIARI -. Sáng chúa nhật 7-9-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã cử hành thánh lễ tại Đền thánh Đức Mẹ Bonaria tại Cagliari, thủ phủ đảo Sardegna, Italia, trước sự hiện diện của 100 ngàn tín hữu, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ được tôn xưng làm vị Bổn Mạng tối cao của đảo này.

Thánh lễ là cao điểm trong chương trình viếng thăm dài 10 tiếng đồng hồ tại tổng giáo phận Cagliari, có 560 ngàn tín hữu Công Giáo.

Khi từ Roma bay đến thành phố cảng này, ĐTC đã được thủ tướng Italia, Silvio Berlusconi, cùng với Đức TGM sở tại Giuseppe Manni, và các chức sắc đạo đời đón tiếp. Liền đó, ngài về Đền Thánh Đức Mẹ Bonaria để kính viếng và hành lễ.

Lịch sử Đền Thánh

Đền thánh Đức Mẹ Bonaria cổ kính với một lịch sử từ 673 năm nay, tọa lạc trên ngọn đồi tên là Bonaria, nghĩa là không khí trong lành. Hồi đảo Sardegna còn thuộc quyền vua Alfonso miền Aragon bên Tây Ban Nha, năm 1335 nhà vua tặng cho các cha dòng Đức Mẹ Chuộc Kẻ Làm Tôi một ngôi thánh đường và các cha xây một tu viện bên cạnh để bảo quản nhà thờ. Năm 1704, các cha dòng quyết định xây một thánh đường rộng lớn hơn để tôn kính Đức Mẹ Bonaria. Công trình trải qua nhiều thăng trầm và nhiều lần bị tạm ngưng và mãi đến năm 1926 mới hoàn tất và được Đức Piô 11 nâng lên hàng tiểu Vương cung Thánh đường. Trong thời thế chiến thứ hai, thánh đường bị hư hại nặng vì các cuộc dội bom, mái vòm bị phá hủy, gian chính nhà thờ cùng với các bức bích họa cũng bị hư hại. Thánh đường được tu bổ lại trong những năm sau đó với sự giúp đỡ của chính quyền và quyết tâm của các tín hữu. Nhà thờ này trở thành thánh đường lớn nhất trên toàn đảo Sardegna. Hai vị Giáo Hoàng liền trước đây, Đức Phaolô 6 đến Đức Gioan Phaolô 2 đều đến hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ Bonaria, và nay đến lượt Đức đương kim Giáo Hoàng.

Trong thánh đường có tôn kính tượng Đức Mẹ cổ kính. Theo tương truyền ngày 25-3 năm 1370, một con tàu khởi hành từ Tây Ban Nha bị bão bất ngờ. Các thủy thủ quyết định vất tất cả đồ đạc hành lý xuống biển, trong đó có một thùng gỗ nặng mà không ai biết trong đó chứa đựng vật gì. Nhưng vừa khi thùng này bị quăng xuống biển thì sóng yên biển lặng. Thùng gỗ ấy trôi dạt vào Cagliari, ngay dưới chân đồi Bonaria, Nhưng không ai kéo lên bờ được. Một em bé nói: hãy đi kêu các cha dòng Đức Mẹ chuộc kẻ làm tôi. Các tu sĩ dòng xuống đồi, kéo thùng gỗ lên, đưa về nhà thờ, và khi mở ra mở ra, mọi người thấy một tượng Đức Mẹ bằng gỗ rất đẹp, một tay bồng Chúa Hài Đồng Giêsu và tay kia cầm cây nến sáng. Trước cảnh tượng này tất cả đều quì gối tôn kính. Lòng sùng kính đối với tượng ảnh lạ lùng này lan ra mau lẹ trên toàn đảo Sardegna, nhất là nơi các thủy thủ. Họ cầu khẩn Mẹ như người bảo vệ họ. Những người Tây Ban Nha lúc đó còn làm chủ đảo Sardegna đã tặng tượng Đức Mẹ danh hiệu là tên thủ đô Buenos Aires của Argentina, nghĩa là Bonaria, không khí trong lành. Ngày nay, hầu như không có con tàu nào khởi hành từ cảng Cagliari mà không có một ảnh Đức Mẹ Bonaria trên tàu.

Ngày 13 tháng 9 năm 1907, Đức Thánh Giáo Hoàng Piô X đã tôn xưng Đức Mẹ Bonaria làm Bổn mạng tối cao của đảo Sardegna. Để kỷ niệm 100 năm biến cố này, Tổng Giáo phận Cagliari đã bắt đầu chương trình mừng lễ từ ngày 13 tháng 9 năm ngoái và sẽ kết thúc vào ngày 21-9 tới đây. Trong bối cảnh đó, cuộc viếng thăm của ĐTC Biển Đức 16 tại đây là cao điểm trong chương trình năm kỷ niệm.

Thánh lễ

Tại quảng trường trước Đền THánh Đức Mẹ, lúc gần 11 giờ sáng, ĐTC đã chủ sự thánh lễ đồng tế với 20 GM thuộc 10 giáo phận trên đảo Sardegna và lối 600 linh mục. Phần thánh ca do ca đoàn 800 ca viên đảm trách. Đặc biệt có 30 tín hữu cao niên, hơn 100 tuổi, tham dự thánh lễ từ bên trong thánh đường.

Trong bài giảng thánh lễ, sau khi chào thăm giáo quyền, các tín hữu và chính quyền, ĐTC đã diễn giảng về 3 bài đọc của ngày lễ Sinh Nhật Đức Mẹ được cử hành trước vì hoàn cảnh đặc biệt, nhất là bài Tin Mừng về gia phả của Chúa Giêsu. Ngài nêu bật vai trò của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ và nói rằng: ”Một lần nữa, chúng ta có thể chiêm ngưỡng chỗ đứng của Mẹ Maria trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, kế hoạch mà chúng ta cũng thấy trong bài đọc thứ 2 rút từ thư gửi tín hữu Roma.. Đây là một kế hoạch cứu độ hoàn toàn thấm nhuần tự do của Thiên Chúa, nhưng tự do này cũng chờ đợi nơi tự do của con người một sự đóng góp cơ bản, đó là sự đáp lại của thụ tạo đối với tình yêu của Đấng tạo dựng nên mình. Và chính trong không gian này của tự do con người, chúng ta nhận thấy sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Maria: trong Chúa Kitô, Mẹ là hoa quả đầu mùa và là mẫu gương của những người yêu mến Thiên Chúa (Rm 8,28). Và ĐTC nói:

”Các bạn Cagliari và Sardegna, cả dân chúng các bạn, nhờ niềm tin nơi Chúa Kitô và nhờ tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ Maria và của Giáo Hội, cũng được kêu gọi tháp nhập vào gia phả thiêng liêng của Tin Mừng. Tại Sardegna, Kitô giáo không được truyền vào đây với gươm giáo của những kẻ chinh phủ hoặc do sự áp đặt từ bên ngoài, nhưng được nẩy mầm từ máu của các vị tử đạo, đã hiến mạng sống mình như một cử cử yêu thương đối với Thiên Chúa và loài người. Chính nơi các hầm mỏ của anh chị em mà Tin Mừng được vang lên lần đầu tiên, Tin Mừng được mang đến đây do ĐGH Ponziano và LM Ippolito và bao nhiêu anh chị em bị kết án phải làm việc trong các hầm mỏ vì niềm tin nơi Chúa Kitô...”

ĐTC cũng ghi nhận rằng Sardegna không bao giờ là lãnh thổ của các lạc giáo; dân chúng tại đảo này luôn bày tỏ niềm trung thành con thảo với Chúa Kitô và Tòa Thánh Phêrô. Đúng vậy, các bạn thân mến, qua những đợi xâm lăng và chiếm đóng, thống trị, niềm tin nơi Chúa Kitô vẫn tồn tại trong tâm hồn dân chúng tại đây như một yếu tố cấu thành chính căn tính của người dân đảo Sardegna.

ĐTC cũng ca ngợi lòng sùng kính của nhân dân đảo này đối với Đức Mẹ. Chúng ta tụ họp nhau nơi là để kỷ niệm một hành vi cao cả của đức tin các cha ông của anh chị em cách đây một thế kỷ đã thực hiện khi phó thác cuộc sống của mình cho Mẹ Chúa Kitô, khi họ chọn Mẹ là vị Bổn Mạng tối cao của Đảo. Lúc ấy họ không thể biết rằng thế kỷ 20 là một thế kỷ rất khó khăn, nhưng chắc chắn chính sự thánh hiến cho Mẹ Maria đã giúp họ tìm được sức mạnh để đương đầu với những khó khăn xảy đến, đặc biệt là hai kỳ thế chiến. Đúng vậy, hải đảo Sardegna của anh chị em không thể có một vị bảo trợ nào khác ngoài Đức Mẹ... Có tới 350 thánh đường và đền thánh dâng kính Đức Mẹ tại Sardegna.

ĐTC nói tiếp: ”Tôi biết rõ Mẹ Maria ở trong tâm hồn anh chị em. Sau 100 năm, hôm nay, chúng ta muốn cảm tạ Mẹ vì sự bảo trợ và tái bày tỏ lòng tín thác nơi Mẹ và nhìn nhận Mẹ là Ngôi Sao hướng dẫn công cuộc truyền giáo mới, nơi trường của Mẹ, học cách mang Chúa Kitô Cứu Thế cho con người thời nay. Xin Mẹ Maria giúp anh chị em mang Chúa Kitô cho các gia đình, là những tiểu Giáo Hội tại gia và là tế bào của xã hội, ngày nay hơn bao giờ hết, đang cần sự tín thác và nâng đỡ về phương diện thiêng liêng cũng như về xã hội. Xin Mẹ giúp anh chị em tìm được những kế hoạch mục vụ để các bạn trẻ gặp được Chúa Kitô, tự bản tính, họ là những người có những đà tiến mới, nhưng thường là nạn nhân của chủ thuyết hư vô lan tràn, họ khao khát sự thật và các lý tưởng, chính lúc họ có vẻ chối bỏ những điều ấy. Xin Mẹ làm cho anh chị em có khả năng rao giảng Tin Mừng cho thế giới lao động, kinh tế, chính trị đang cần một thế giới mới các giáo dân Kitô dấn thân, có khả năng tìm kiếm một cách nghiêm túc và đầy khả năng những giải pháp phát triển dài hạn.

Bài giảng của ĐTC bị ngắt quãng nhiều lần vì những tiếng vỗ tay của các tín hữu, nhất là khi ngài nhắc đến lịch sử đức tin can trường khích lệ các tín hữu Sardegna.

Cuối thánh lễ, trước khi đọc kinh Truyền Tin, theo lời thỉnh cầu của Đức TGM sở tại Giuseppe Mani, nhân danh các GM toàn đảo Sardegna, ĐTC đã đặt vào bàn tay trái của tượng Đức Mẹ Bonaria hình một con tàu nhỏ bằng vàng với cây nến sáng, biểu tượng lòng kính mến và biết ơn. Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh tái phó thác Giáo Hội và toàn thể nhân dân đảo này cho sự bảo trợ của Đức Mẹ. Các tín hữu đã vỗ tay hưởng ứng nhiệt liệt. ĐTC cũng dâng tặng Đức Mẹ đóa hoa hồng bằng vàng.

Kinh truyền tin

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin kế đó, ĐTC nói: ”Theo vết các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm, tôi cũng chọn Đền thánh Đức Mẹ Bonaria để thực hiện cuộc viếng thăm mục vụ muốn bao trùm toàn đảo Sardegna..

”Hôm nay, chúng ta hãy lập lại sự phó thác thành Cagliari, đảo Sardegna và mỗi người dân tại đây cho Mẹ Maria. Xin Đức Trinh Nữ chí thánh canh chừng trên tất cả và từng người, để gia sản các giá trị Tin Mừng được thông truyền trọn vẹn cho các thế hệ trẻ, và để Chúa Kitô hiển trị trong các gia đình, trong các cộng đoàn và các môi trường xã hội. Đặc biệt xin Mẹ bảo vệ những người trong lúc này đây đang cần sự can thiệp hơn cả của Mẹ hiền: các trẻ em và người trẻ, người già và các gia đình, các bệnh nhân và mọi người đau khổ.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến các nạn nhân bị bão tại Haiti và nói rằng: ”Dưới cái nhìn của Mẹ Maria, tôi muốn nhắc đến dân chúng quí mến tại Haiti, bị thử thách nặng nề trong những ngày qua vì 3 trận cuồng phong thổi qua. Tôi cầu nguyện cho đông đảo các nạn nhân, và những người không còn gia cư. Tôi gần gũi với toàn thể quốc gia Haiti và cầu mong các viện trợ cần thiết sớm được đưa tới đây. Tôi phó thác tất cả cho sự bảo vệ từ mẫu của Đức Mẹ Bonaria..

Đã có gần 600 người dân tại Haiti bị thiệt mạng vì cuồng phong và thiệt hại vật chất rất nặng nề.

Thánh lễ ĐTC cử hành tại Đền thánh Đức Mẹ Bonaria kết thúc lúc gần 1 giờ trưa. Ngài đến viếng Đại chủng viện miền, làm phép nhà nguyện chủng viện và dùng bữa trưa với hơn 20 GM thuộc đảo Sardegna.

Ban chiều, sau khi gặp ban tổ chức cuộc viếng thăm, ĐTC đã gặp gỡ các LM, chủng sinh và cộng đoàn Phân khoa thần học Sardegna tại Nhà thờ chính tòa Cagliari vào lúc 5 giờ. Tiếp đến ngài gặp gỡ giới trẻ tại Quảng trường Yenne trong thành phố Cagliari trước khi ra phi trường đáp máy bay trở về Roma, kết thúc cuộc viếng thăm thứ 11 tại Italia.
 
Top Stories
越南主教们热切关注太河教友
Asia-News
05:42 07/09/2008
海防主教谴责政府新闻媒体对天主教教友的诽谤运动。在一封写给政府当局的信中,河内的八十二位神父要求“不要把民事纠纷刑事化”,也不要用“暴力”措施来解决安全问题。

河内(亚洲新闻) -昨天,两位主教和成千上万的天主教教友带着他们对太河信友们的关心来到了河内,他们参加了游行活动和守夜祈祷,为教会财产主持正义。同时,也有来自首都的八十二位神父书面请求政府“不要把民事纠纷刑事化”,因为他们把堂区交给了一家名为Chien Thang Sewing Company的包装公司。

海防主教吴文天若瑟与教区的数百名教友从一百公里以外的地方来到河内,向那些和平示威者表达了他们的关注。他说:“在这几天,新闻媒体的报道让天主教教友和非教友都处于震惊和混乱的状态。有很多媒体在报道时都对天主教教友的尊严予以诽谤。让我们大家一起祈祷,使所有的人都知道这是一种尊重真理和捍卫正义的行为”。

在同一天,也有三千人与阮文桑主教从太平一起赶来。他在祈祷之后说到:“我从教宗那儿给你们带来玫瑰经祝福,希望我们天上的母亲能从危险和混乱中解救我们”。然后他当着在场警察们的面说到:“无论是外教人还是非基督徒,我都希望你们能够为和平而很好的服务”。他的话得到了许多警务人员的认同。

关于河内的神父们,他们在写给政府当局的信中提出“不要把事件变的刑事化和政治化了”,也“不要采取暴力性质的安全措施来解决堂区信友们提出的合理请求”。

然后,神父们也要求“不要只以一面之词,歪曲,和对神职人员,修会会士和信友们的侮蔑诽谤来传播这一消息”,此外也要“调查并惩罚那些以野蛮的方式攻击和平祈祷的信友们的个人和团体肇事者”,“也不要威胁或歧视天主教学生或公务员”。
 
Catholics assert themselves in Hanoi land dispute
Washington Post
13:45 07/09/2008
HANOI, Vietnam -- At a vacant lot in downtown Hanoi, Catholics have gathered to worship the Virgin Mary _ and pressure the communist authorities.

The faithful gather to demand the return of the Catholic church's land (Chitose Suzuki - AP)
For the second time this year, the city's Catholics have taken the extraordinary step of occupying state-controlled land that once belonged to the church. Their gatherings are putting pressure on a government eager to project religious tolerance but determined to maintain political control and public order.

Hundreds of Catholics have been holding daily prayer vigils since Aug. 15 to demand the return of the plot next to the Thai Ha Church. They broke through the brick wall surrounding the weed-covered, rubble-strewn site and installed a 15-foot-tall crucifix, dozens of statues of the Virgin Mary and hundreds of bamboo crosses.

City officials have pleaded with them to leave, but the crowds grew last week after rumors circulated that the Virgin Mary herself had come to lend her support.

In the decades after Vietnam's communists took power in 1954, the church was tightly controlled and public demonstrations were banned. But in recent years, religious freedom has increased gradually and the government has grown more tolerant of land protests by farmers and others.

These changes are part of a broader evolution that began in the 1990s and have accelerated as Vietnam has opened to foreign investment. Greater personal liberty has followed, with consumers gaining access to everything from CNN to Gucci to the World Wide Web.

Earlier this year, Catholics held prayer vigils next to St. Joseph's Cathedral, Hanoi's biggest church, to demand the return of land where the Vatican Embassy stood until the communists severed relations with the church in Rome.

Those demonstrations ended after authorities agreed to discuss the church's claim if the demonstrators halted their vigils.

"The talks are moving very slowly, and there has not been much progress," Hanoi Archbishop Ngo Quang Kiet told The Associated Press in an interview Thursday.

The land at Thai Ha is 17,000 square yards _ roughly the size of two American football fields. The protesters began their vigils after they saw potential buyers scouting the land and heard a rumor that the city planned to sell the site, worth millions of dollars, to a property developer to build 28 residential and commercial lots.

After the vigils began, the government announced that it planned to turn the site into a public park. It views the demonstrators as vandals and trespassers, and has launched a campaign of denunciation in the state-owned media.

"A number of parishioners and some priests have ignored public opinion and belittled the rule of law," wrote the New Hanoi newspaper. It accused the Thai Ha priests of hatching "wicked plots."

Tensions increased last month after parishioners and two priests said dozens of police used stun guns and clubs to disperse a crowd of nearly 300 that had gathered outside a police station near the disputed land. City officials deny the charge.

"I am very upset that the police used violence to interfere with the prayer of Catholics," Kiet said. "Their vigils are very peaceful. We don't want to overthrow the authorities."

The archbishop said the vigils are grassroots initiatives not organized by the Hanoi diocese, but he supports them. "The Thai Ha parish has official ownership of that land," he said.

He acknowledged that Hanoi has increased religious freedom in recent years, but less than he would like.

Senior government officials have grown more supportive, and pressure has been applied by the international community and Vietnamese Catholics, who have grown increasingly assertive, Kiet said.

With more than 6 million followers, Catholicism is the second largest religion after Buddhism in the nation of 84 million.

Land ownership rules are complex in Vietnam, where the government controls all property.

After the communists ousted the French colonial regime, they seized land from wealthy property owners, including the Catholic church, and distributed it to those who fought in the revolution.

The church claims it has documents verifying its claim to the Thai Ha land. The city claims a former parish priest signed papers turning the property over to Hanoi in 1962.

(Source: by BEN STOCKING, The Associated Press, Saturday, September 6, 2008; 11:41 AM)
 
Vietnamese Bishops join mass prayer protests
Independent Catholic News
19:09 07/09/2008
In a clear demonstration of solidarity, The Bishops of Hai Phong and Thai Binh visited Thai Ha and joined more than 6,000 Catholics demonstrating for the return of confiscated church property on Friday. The Bishops of Lang Son and Phat Diem arrived on Saturday to take part.

6000 on the strets of Hanoi
Bishops join in public demonstrations
Bishop Joseph Dang Duc Ngan of Lang Son and protestors
On Friday, Bishop Joseph Vu Van Thien, from Hai Phong Diocese, travelled 100 km to Hanoi to give his support to protestors. He was accompanied by hundreds of Catholics, and dozens of priests and religious of his diocese.

"In these days," said Bishop Joseph Vu leading a procession to the site, "media coverages have bewildered, and confused Catholics and non-Catholics. There have been so many news reports defaming the reputation and dignity of Catholics. Let us pray so that everybody knows how to respect the truth and defend justice."

On the same day, more than 3, 000 Catholics braving cold rain at Thai Ha, applauded Bishop Francis Nguyen Van Sang who had travelled 110 km from his Thai Binh Diocese to join protestors. After a short prayer serviceBishop Francis said: "I gave you a rosary that was blessed by the Pope himself in the hope that our Mother of Perpetual Help will save you from dangers and chaos."

Addressing police officials who were in duty at the site, he said: "For non-Catholics and non-believers, I also wish you good help and peace". His blessings were welcomed by many police men.

Eighty two Catholic priests in Hanoi also gave their full support to Thai Ha parish. In a letter to the government, they expressed their "extreme upset" to the way it has handled the dispute. "The issue in its nature is only a civil dispute between Thai Ha parish and the Chien Thang Sewing Company, how come this government mobilized the whole system of media and even its armed force to assault the parish?" the letter asked.

The letter requested that the government "not to criminalize such dispute of a civil nature. Stop summoning and arresting parishioners; not to politicize such internal dispute not to take security measures of violent nature in resolving the parishioners' legitimate demand".

Furthermore, the government "must not broadcast news that is one-way, distortional, defaming, insulting to the priests, brothers and parishioners and immediately investigate and prosecute those individuals and organizations who had savagely assaulted the parishioners while they were praying peacefully not to terrorize or apply discriminating or prejudice treatment on Catholic students and public servants".

On Saturday, more than six thousand Catholics braved cold rain to attend the largest prayer protest so far at Thai Ha, Hanoi. Numbers would have been even greater if the police hadn't banned protestors from Phat Diem and Thai Nguyen provinces from attending.

Two more bishops: Bishop Joseph Dang Duc Ngan, from Lang Son Diocese, in far northern Vietnam, 154km from Hanoi and, Bishop Joseph Nguyen Van Yen of Phat Diem joined the protest on Saturday. Bishop Joseph Dang said: "I feel very emotional to be with you here. To witness the way you express your desires for values of faith, justice and peace." Bishop Joseph Dang is the youngest bishop in Vietnam, ordained to Bishop on December last year.

Bishop Joseph Nguyen Van Yen of Phat Diem, whose most followers were barred to travel into the capital, presideda Mass for protestors with more than 20 priests. "We are here from many regions of the country to pray with our Mother of Perpetual Help," said Bishop Joseph Nguyen in his sermon, "to be in communion and in solidarity with you in this difficult time. We are here to pray for the truth and justice."

As the influx of protestors at Thai Ha has swelled rapidly, Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet of Hanoi warned: "the situation will get more complicated".
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thiếu Nhi Thánh Thể Sydney Chịu Phép Thêm Sức
Hoàng Việt Nam
02:03 07/09/2008
SYDNEY - Tối thứ Sáu 05/9/2008. Có 62 em Thiếu Nhi Thánh Thể thuộc Liên Đoàn Nữ Vương Hòa Bình Sydney đã đến thánh đường St. Therese Lakemba lãnh nhận Bí tích Thêm Sức do Đức Giám Mục Terry Brady ban phép Thêm Sức.

Ngoài ra còn có các bậc phụ huynh, quý Vú Bõ đỡ đầu, quý Huynh Trưởng, và quý Quan Khách tham dự rất đông đủ. Trước khi dâng Thánh lễ, Cha Tuyên uý Trưởng Nguyễn Khoa Toàn ngỏ lời chào mừng Đức Giám Mục đã thương mến Cộng Đồng đến chủ tế Thánh lễ và ban phép Bí tích Thêm Sức cho các em Thiếu Nhi Thánh Thể.

Trong bài giảng Đức Giám Mục Terry Brady đã khen ngợi các em rất ngoan và khuyến khích các em khi nhận ơn Chúa Thánh Thần hãy tỏ ra gương mẫu để xứng đáng là con cái của Chúa Giêsu KiTô. Đặc biệt là trong kỳ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới vừa qua tại Sydney (WYD2008) Chúa Thánh Thần đã tác động trên mọi Giới Trẻ khắp hoàn cầu để Giới Trẻ là nhân chứng đích thực của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại..

Sau đó Đức Giám Mục chủ tế ban phép Thêm Sức cho từng em một và chủ tế dâng Thánh lễ tạ ơn gồm có quý Tuyên uý Trưởng Nguyễn Khoa Toàn, Cha Paul Văn Chi, Cha Thụ, Cha Khách ở VN và Cha Garry Rawson Chính xứ Lakemba cùng đồng tế.

Trước khi kết thúc Thánh lễ một em Thiếu Nhi đại diện lên ngỏ lời cám ơn Đức Giám Mục và tặng hoa cho Ngài, đồng thời cũng cám ơn quý Cha, quý Sơ, quý Huynh Trưởng, quý Giảng Viên Giáo Lý đã nâng đỡ hướng dẫn dạy dỗ các em trong những lớp Giáo Lý suốt trong một năm qua để hôm nay được vinh hạnh lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm Sức. Các em cũng cám ơn quý ân nhân đã giúp đỡ vật chất lẫn tinh thần, quý Ban Mục Vụ Giáo Đoàn Lakemba, và tất cả mọi người đã đến tham dự cầu nguyện cho các em trong Thánh lễ hôm nay. Các em hứa sẽ cố gắng sống ngoan hiền đạo đức và noi gương Chúa Giêsu KiTô là Vị Anh Cả Tối Cao của Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể. Sau khi kết thúc Thánh lễ, Đức Giám Mục, qúy Cha và các em chụp chung tấm hình kỷ niệm và Ngài ở lại gặp gỡ mọi người trong tình thân mật.
 
Giáo xứ Tuy Hòa khai giảng niên khóa Giáo Lý 2008-2009
LM. Giuse Trương Đình Hiền
10:03 07/09/2008
Tuy Hòa 07/09/08.- Trong ánh nắng ban mai dịu mát của mùa Thu vừa chợt đến, khung cảnh nhà thờ Tuy Hòa như vui hẳn lên trong buổi sáng Chúa Nhật ngày 7.9.2008, ngày giáo xứ chính thức Khai Giảng Niên Khóa Giáo Lý 2008 - 2009. Được biết, cách đây 4 tuần Chúa Nhật, cũng tại tiền đường nhà thờ nầy, buổi lễ Bế Giảng niên khóa giáo lý 07-08 đã diễn ra long trọng và ấm cúng. Lễ Khai giảng năm nay được thực hiện cũng vào thời điểm khi các trường trung, tiểu học bên đời đã đồng loạt khai giảng vào ngày 5.9 vừa qua.

Xem hình ảnh ngày khai mạc khóa Giáo lý

Trọng tâm của bổi lễ Khai giảng nầy chính là việc toàn giáo xứ triển khai "Phương án mục vụ huấn giáo 08-09" để với những định hướng mục vụ của Phương án nầy, cộng đồng giáo xứ cùng bước đi trên một chặng mới trong hành trình học biết và sống Lời Chúa, tiếp cận và đào sâu các chân lý đức tin. Đặc biệt, năm nay, Phương án mục vụ huấn giáo tập chú vào trọng tâm: ĐÀO TẠO MỘT ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH, mà kim chỉ nam hướng dẫn và cũng là "Tên Gọi" của Niên Khóa Giáo Lý chính là: "TÔI BIẾT TÔI TIN VÀO AI", một lời của chính Thánh Phaolô, Vị Tông Đồ dân ngoại mà năm nay toàn Giáo Hội đang cử hành Năm Thánh mang tên Ngài, "Năm Thánh Phaolô".

Nội dung chương trình của buổi lễ Khai Giảng được sinh động hẳn lên nhờ các tiết mục hoạt vũ của các lớp thiếu nhi, nhờ tiếng hat và những chiếc áo mới màu hồng nhạt của các anh chị em giáo lý viên, những người sẽ vất vả nhọc mệt đồng hành với các thanh thiếu nhi trên con đường học hỏi giáo lý Phúc Âm. Sự ý thức của cộng đoàn dân Chúa trong giáo xứ đối với sinh hoạt huấn giáo đã hiện thực qua sự hiện diện đông đảo và đầy đủ các thành phần tu sĩ, giáo dân, các chức việc và nhất là các thanh thiếu nhi, đối tượng chính của công cuộc mục vụ huấn giáo của giáo xứ. Với tiếng trống khai mạc được cha chánh xứ Giuse Trương Đình Hiền đánh lên, niên khóa giáo lý mới bắt đầu. Toàn thể cộng đoàn giáo xứ Tuy Hòa nắm tay cất bước lên đường, con đường sống và thể hiệnh đức tin qua sinh hoạt học hỏi giáo lý và lớn lên từng ngày trong mái trường của Hội Thánh theo châm ngôn: TÔI BIẾT TÔI TIN VÀO AI
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Giáo xứ Thái Hà quanh quẩn ký
Trần Khải Thanh Thủy
01:01 07/09/2008
Giáo xứ Thái Hà quanh quẩn ký

Nhà mẹ tôi ở ngay gần khu vực giáo xứ Thái Hà, cách một trục đường Tây Sơn ngắn ngủi bằng khoảng 5-10 phút đi bộ. Vì vậy, tuy không phải là người theo đạo, nhưng tôi cảm nhận họ là những người mang một giá trị luân lý đạo đức cao hơn hẳn người bình thường chúng tôi.

Hàng ngàn giáo dân từ khắp nơi đổ về Thái Hà cầu nguyện ở Thái Hà dù mưa gió
Bên cạnh các giá trị xã hội thông thường như công việc, học hành, giao tiếp văn hóa xã hội v.v trong họ còn là sự kính Chúa, yêu nước, nhân ái sẻ chia, nhẫn nhịn chịu đựng, tha thứ, bao dung...

Hầu như ngày nào, tối nào, tuần nào họ cũng cầu nguyện tại nhà hay đi nhà thờ, đôi mắt ngước lên ảnh Chúa đầy ngưỡng mộ, yêu thương, gắn bó. Trong giao tiếp họ thường hài hòa, nhỏ nhẹ, có vẻ như tâm hồn họ tràn đầy một thứ ánh sáng của lương tâm, của tình người, của Chúa, vô cùng nhạy cảm, dễ xót xa, mủi lòng, thương người, thương đời vô tận. Mỗi khi có việc phải tiếp xúc với họ, dù là trẻ em hay người già, phụ nữ, trong tôi luôn trào lên niềm cảm mến, tin cậy, vô lo.

Chiều 28/8, tôi may mắn qua được “tai mắt nhân dân” để về lại với mẹ sau cả 9 ngày trời đằng đẵng bị nhốt trong hang đá.

Ngồi chưa ấm chỗ, cậu em trai đi đâu về, hồn nhiên bảo:

- Trước cửa công an quận Ðống Ða, bà con giáo dân Thái Hà tụ tập đông lắm.

- Thế à?

Tôi chưa kịp định thần, chưa kịp hiểu mọi chuyện thì lần lượt cả gia đình nhỏ gồm em dâu, cháu ruột và con gái đi làm, đi học về, tất cả đều bàng hoàng, phẫn uất:

- Tắc đường, bà con tràn từ giáo xứ ra đồn đòi người bị bắt đông quá, dễ đến hơn 100 người.

Thoạt đầu, chỉ nghe nhắc đến hai tiếng “giáo xứ”, “giáo dân”, “Thái Hà” đã gợi lên một điều gì đó hết sức bình lặng, thân thương rồi, sao lại có chuyện sách nhiễu, kích động để bị lực lượng của chính quyền bắt rồi phải kéo đến đồn công an đòi người? Ðiều này - giữa xã hội cộng sản, ngay đến lương dân cũng còn không dám nữa là, chắc lại có chuyện động trời rồi?

Tôi chưa kịp hỏi han, bàn luận, mẹ tôi ngồi bên cạnh đã thủng thẳng:

- À! Bà con tại giáo xứ Thái Hà từ cuối 2007 đã có chuyện đòi đất rồi. Nghe đâu đất của họ mua từ năm 1928 với diện tích 60,000 m2, có chứng thực bằng văn bản gốc tiếng Anh hay chữ La Tinh đàng hoàng mà bị nhà nước tịch thu gần hết, chỉ còn lại 1/20, nên bà con đòi lại để lấy chỗ làm nơi cầu nguyện, giảng dạy giáo lý.

“Thì ra là thế. Việc gì cũng có nhân quả của nó, của xê-ra phải trả lại cho xê-ra chứ? Cộng sản cứ dùng chính sách cướp trắng, cướp sạch rồi cả vú lấp miệng em, sao được?

Buổi tối, ăn cơm xong, tôi trở về hang đá nhỏ tại Gia Lâm, ngang qua địa phận giáo xứ Thái Hà, thấy bà con vẫn đang lũ lượt kéo đi... Ðã từng chứng kiến cảnh dân oan khắp miền bị đàn áp, lòng tôi quặn thắt bởi bao nhiêu ý nghĩ, tâm trạng lo lắng, đau buồn: “Liệu những con người bình dị, kính Chúa, yêu nước kia có bị lũ chó người đàn áp không? Với sức lực nhỏ bé như thế, họ có chịu nổi những thế lực thù địch rõ ràng là lũ công an đảng không? Biết đâu chúng lợi dụng đêm tối để hiện hình trước mặt bà con với giày đinh, áo giáp, mũ sắt, roi gân bò và dùi cui điện, còng số 8 như với bà con dân oan thì sao?”

Về nhà, vừa mở cửa bước vào, tôi đã nghe tiếng bà con nháo nhác gọi điện thoại thông báo: 400 bà con giáo xứ Thái Hà bị đàn áp, thậm chí cậu em tôi còn nghe rõ cả tiếng quật vun vút của những roi gân bò, cả ánh điện lóe sáng của dùi cui điện, cả những chiếc giày đinh đạp thục mạng lên mặt, lên người bà con khiến người bị ngất tại chỗ, người bị tóe máu mặt, máu đầu, kêu khóc như ri...

Buông ống nghe, bất thần tôi kêu lên: “Chúa ơi, sao người lại sinh ra chúng con trong xã hội cộng sản khốn nạn này? Cái xã hội coi con người như một bóng ma, một bản nháp sơ sài, một mớ hồ sơ tạp nhạp, hết tố cáo này lại khiếu kiện kia, Chúa ơi? Hàng triệu dân oan khắp 64 tỉnh thành cả nước còn chưa đủ sao mà ngay cả bà con giáo dân thuộc địa phận giáo xứ Thái Hà - vốn nổi tiếng là ngoan, hiền cũng không thoát khỏi lũ ác quỷ cộng sản sao, Chúa ơi?

Cả đêm tôi bần thần ngủ không ngon giấc, phần vì cốc trà sữa ở nhà mẹ đẻ với tỷ lệ chè khá cao so với một người dễ bị tổn thương về tinh thần như tôi, song chủ yếu là hình ảnh bà con bị đàn áp mà cậu em và những người dân oan chứng kiến đã nói lại với tôi qua điện thoại.

Theo địa chỉ mà Hoài Việt cung cấp, tôi bần thần ngồi bên trang mạng: chuacuuthe.com. Thanhlinh.net. VietCatholic.net v.v... đầu óc bấn loạn bao nhiêu hình ảnh xảy ra kể từ ngày 13-8 giữa giáo xứ Thái Hà, khi những ngày bình thường đã cháy lên, những người hiền lành đã đứng lên đòi quyền làm người, quyền sống, quyền cầu nguyện ngay trên mảnh đất mà đảng đã cướp trắng của họ và bán cho công ty may Chiến Thắng bao năm.

Qua những đoạn video và bài viết trên mạng, trong tôi văng vẳng những tiếng kêu gào hỗn loạn mà tôi đã từng nghe trong các cuộc trấn áp dân oan từ Mi Ðiền, (Bắc Giang), Tiền Phong (Thái Bình), Kim Nỗ (Ðông Anh), Ðại Mạch (Ðông Anh) v.v... Lại như mọi khi, trong nỗi xúc động dâng trào, tôi chỉ biết thoát ra khỏi cơn chấn động tâm thể của mình bằng những vần thơ:

Còi xe ủ công an xịch đến
Bao giáo dân chạy túa ra đường
Thôi tiếc gì nhân mạng nhỏ nhoi
Dẫu là Chúa, độc tài cũng đuổi
Ôi kinh Thánh giữa tháng ngày bão nổi
Cháy tơi bời trong mắt giáo dân
Nơi cầu nguyện biến thành nơi máu đổ
Nước mắt con chiên chảy thành hồ


Kể từ ngày 14/8/2008, cuộc sống của cả nghìn giáo dân trong giáo xứ đã không còn là điểm hội tụ của niềm tin, niềm kính Chúa yêu nước. Ngược lại chỉ còn là nơi đan dệt những bất công, ngang trái, những tủi hổ, đớn đau, những hẩm hiu số phận, cũng là một bi kịch không hề lường trước trong suy nghĩ vô cùng trong sáng, thánh thiện của hầu hết giáo dân.

Thái Hà, 30-8-2008

Còn tiếp

(Nguồn: Người Việt, Thursday, September 04, 2008)
 
Từ ''linh mục dỏm'' được Đảng CSVN phong chức tới ''Giáo dân cốt cán''
An Dân
01:26 07/09/2008
Từ "linh mục dỏm" được Đảng CSVN phong chức tới "Giáo dân cốt cán"

Mấy ngày nay, giáo dân giáo xứ Thái Hà truyền tay nhau đọc tờ “Biên bản làm việc” giữa thiếu tướng Nguyễn Đức Nhanh - Đại biểu Quốc hội, Uỷ viên UBND thành phố Hà Nội, Đại biểu HĐND thành phố Hà Nội, Giám đốc công an thành phố Hà Nội - với 11giáo dân được biên bản ghi nhận là “cốt cán”, trong đó có 7/11 giáo dân ký tên vào biên bản.

Về vấn đề này, Báo Công an Nhân dân cuối tuần, số 34, ra ngày 7/9/2008, tại trang 3 đã tiếp tục có những thông tin bịa đặt, bóp méo sự thật, thiếu cơ sở nhằm chia rẽ khối đoàn kết toàn dân. Bài báo viết: Sáng 5 tháng 9 năm 2008, khi lãnh đạo Công an thành phố Hà Nội đến giáo xứ Thái Hà gặp mặt, làm việc với linh mục, giáo dân ở đây thì đã có hành vi một số người không hợp tác” . Tuy nhiên, ngay câu sau, tác giả bài báo đã lộ mặt là kẻ vu khống có hạng, khi viết: “Tại buổi làm việc sáng 5/9/2008 đã có 11 người có chức sắc và nhiều giáo dân ở giáo xứ Thái Hà tham dự” . Ngay cả chuyện này thì tác giả bài báo cũng đang cố tình tô vẽ, xuyên tạc.

Chúng tôi đã đến giáo xứ Thái Hà để tìm hiểu thì được biết, ngày 5 tháng 9 năm 2008, không có bất cứ phái đoàn nào là “lãnh đạo Công an thành phố Hà Nội” đến giáo xứ Thái Hà gặp mặt, làm việc mà chỉ có việc Công an thành phố Hà Nội thuê xe chở 11 giáo dân tới Công an Hà Nội để “gặp mặt và làm việc” với thiếu tướng Nguyễn Đức Nhanh – Giám đốc Công an thành phố Hà Nội. Đây là nhóm giáo dân thuộc Ban hành giáo đã bị giải thể từ năm 2002 và kể từ đó thì những giáo dân này luôn đứng ngoài cuộc trong tất cả mọi sinh hoạt của giáo xứ.

Giờ mới lòi cái đuôi: 2 linh mục dỏm này được Đảng CSVN phong chức năm 2001
Khi đề cập tới việc báo chí cho rằng có “chức sắc” tham gia buổi gặp mặt và làm việc với Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, thì được nhà thờ cung cấp một văn bản, do ông Vũ Công Quảng – Chánh văn phòng Thành uỷ - ký ngày 07/6/ 2001 (xem văn bản). Theo Công văn này thì hai trong số 11 giáo dân có mặt, tự đứng ra tổ chức và dẫn đầu phái đoàn tới gặp Giám đốc Công an Hà Nội, đã từng được Chính quyền Hà Nội “phong chức linh mục” từ năm 2001. Do đó, việc Báo Công an Nhân dân tiếp tục “phong chức” cho họ thì không có gì lạ. Họ có phải là giáo dân “cốt cán” của giáo xứ Thái Hà như “Biên bản làm việc” đã nêu không, thì tự tờ công văn cho thấy tất cả. Họ đã từng được Nhà nước “phong chức linh mục” thì việc Nhà nước tự phong cho họ là “giáo dân cốt cán” chỉ là chuyện bình thường.

Vấn đề là tại sao một vị Đại biểu Quốc hội như thiếu tướng Nguyễn Đức Nhanh lại có thể đứng ra tổ chức một buổi gặp mặt như thế? Tại sao thiếu tướng lại không trực tiếp xuống gặp giáo dân tại nhà thờ Thái Hà như các linh mục và giáo dân giáo xứ Thái Hà đã đề nghị? Trong tư cách là Đại biểu Quốc hội, thiếu tướng hoàn toàn có quyền tổ chức một buổi gặp mặt như vậy tại nhà thờ Thái Hà. Vậy tại sao đã không làm???

Báo chí, truyền hình không ngừng vu cáo cho các linh mục và giáo dân Thái Hà “không hợp tác và thiếu thiện chí” . Việc UBND thành phố Hà Nội mà đại diện là thiếu tướng Nguyễn Đức Nhanh đã tổ chức một buổi gặp mặt như vậy có thực sự là “hợp tác và thiện chí” không? Việc thuê xe đón rước, việc tự động tổ chức buổi “gặp mặt và làm việc” với một nhóm giáo dân mà không thông qua giáo xứ cũng như các vị linh mục quản xứ, rồi phong cho những giáo dân này là “giáo dân cốt cán, đại diện cho giáo dân Thái Hà” (trích nguyên văn biên bản làm việc), có đúng thủ tục hành chính không hay đây thực sự chỉ là chiêu bài gây chia rẽ nội bộ giữa những người Công giáo hòng đánh lạc hướng dư luận? Những phát biểu của nhóm “giáo dân cốt cán” được chỉ đạo là “mạnh dạn phát biểu ý kiến theo gợi ý của ông Nhanh” (trích nguyên văn Biên bản) có còn là sự công tâm hay chỉ là do ép buộc?

Chúng tôi lấy làm lạ, là tại sao đến giờ này, UBND thành phố Hà Nội, cơ quan có thẩm quyền giải quyết những khiếu kiện liên quan tới vấn đề đất đai lại chưa hề có bất cứ một động thái tích cực nào trong việc giải quyết vụ việc đất đai tại giáo xứ Thái Hà; mà chỉ thấy Công an thành phố Hà Nội – cơ quan chuyên trách về an ninh – tích cực vào cuộc và dùng đủ mọi kế sách kể cả bạo lực để yêu cầu Nhà thờ tuân thủ những những quyết định thiếu cơ sở pháp lý, có tính cách đơn phương áp đặt từ phía UBND thành phố Hà Nội?

Chúng tôi lấy làm lạ là tại sao sau khi Chính quyền đã cung cấp những chứng cớ cho rằng linh mục Vũ Ngọc Bích đã ký “biên bản Hội nghị bàn giao nhà sang Nhà nước thống nhất quản lý” – nghĩa là Nhà nước khi cung cấp những chứng cứ pháp lý, thì đã đương nhiên đồng ý chấp nhận cùng đối thoại dựa trên những chứng cớ pháp lý – thì lại đã không “thiện chí và hợp tác” cùng nhà thờ giải quyết vấn đề tranh tụng dựa trên những chứng cứ pháp lý đã được đưa ra? Phải chẳng Chính quyền đang đụng phải một vấn đề nan giải đó là những chứng cớ mà chính quyền “đã lỡ đưa ra”, hoàn toàn không có giá trị pháp lý (xem thư phản bác của Nhà thờ Thái Hà do linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong ký ngày 27/8/2008, gửi Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, yêu cầu cung cấp những chứng cứ hợp pháp và hợp lệ) .

Chúng tôi lấy làm lạ, là tại sao ngay sau ngày nhà thờ Thái Hà gửi thư phản bác tới Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội (27/8/2008), thể hiện nguyện vọng và thiện chí được đối thoại với Nhà nước dựa trên những cơ sở pháp lý, thì cũng ngày này, cơ quan Công an quận Đống Đa, dưới sự chỉ đạo của cấp trên, đã khởi tố vụ án và khởi tố bị can bắt tạm giam một số giáo dân và ngay sau đó đêm 28/8/2008 đã dùng dùi cui điện trấn áp các giáo dân cầu nguyện ôn hoà tại phố Thái Hà? Việc khởi tố vụ án, việc dùng dùi cui điện trấn áp như vậy, có phải là nhà nước muốn dập tắt “ý chí, thiện chí và nguyện vọng” của người giáo dân không? Việc chính quyền chỉ đạo các cơ quan truyền thông “tạo dư luận”, nói xấu, vu khống, mạ lị các chức sắc và giáo dân Thái Hà mà không cho họ được công khai lên tiếng trước công luận, có thực sự là “Nhà nước tỏ rõ thiện chí và hợp tác” với nhà thờ trong việc giải quyết vấn đề đất đai không?

Chúng tôi thiết tưởng rằng vụ việc Thái Hà chỉ có thể giải quyết ổn thoả khi cả hai bên cùng thật sự thiện chí, cùng đối thoại dựa trên những chứng cớ pháp lý, tôn trọng sự thật và lẽ công bằng.

Nếu Nhà nước tiếp tục cách hành xử như đã hành xử trước đây: dùng truyền thông một chiều mạ lị, vu khống, tô vẽ sự kiện, “tự phong chức cho một số giáo dân làm linh mục” và tự coi những giáo dân này là “những giáo dân cốt cán, đại diện cho giáo xứ Thái Hà” , thì không những đã cố tình vi phạm các thủ tục khiếu nại hành chính theo qui định của pháp luật, mà còn làm cho tình hình thêm xấu đi.

Nếu Nhà nước thực tâm muốn đối thoại thì hãy đối thoại với các vị hữu trách trong Dòng Chúa Cứu Thế - cơ quan có đầy đầy đủ tư cách pháp nhân, chứ không nên “dựng lên một vài linh mục” và tự phong cho họ là “những giáo dân cốt cán” để đánh lừa dư luận, gây chia rẽ giáo dân như UBND thành phố Hà Nội đã và đang làm.

Chìa khoá tháo vấn đề đang nằm ở phía Nhà nước. Vấn đề là Nhà nước Việt Nam có thiện chí để đối thoại dựa trên những chứng cứ pháp lý, tôn trọng sự thật và lẽ công bằng hay không?

Phong chức cho một số giáo dân “làm linh mục” và coi họ là cốt cán, là đại diện cho giáo xứ Thái Hà như chính quyền Hà Nội đang làm, sẽ làm cho cánh cửa đối thoại ngày càng thêm hẹp và làm cho khuôn mặt của một Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một xấu đi trước bàn dân thiên hạ và trước những người có lương tri, những người luôn mong cho công lý và hoà bình được hiển trị.

Hà Nội, ngày 7 tháng 9 năm 2008
 
Lời kinh đêm của Giáo Dân San Jose cầu nguyện cho Giáo Hội Mẹ Việt Nam và cho Giáo Xứ Thái Hà.
Nguyễn Long Thao
01:42 07/09/2008
Lời kinh đêm của Giáo Dân San Jose cầu nguyện cho Giáo Hội Mẹ Việt Nam và cho Giáo Xứ Thái Hà trong ngày 06 tháng 9 năm 2008.

Lời Cầu Nguyện của Đức Ông Đa Minh Đỗ Văn Đĩnh:

Lạy Chúa, xin ban bình an cho những người trông đợi Chúa.

Xin nhận lời các tôi tớ Chúa nguyện cầu

Và đưa dẫn anh chị em chúng con ở quê nhà vào đường hòa bình và công lý.

Lời cầu nguyện của Linh Mục Randy Valenton:

Father,

in your mysterious providence,

the Church in Vietnam shared in the sufferings of Christ your Son.

Give the spirit of patience and love

to those who are persecuted for their faith in you

that they may always be true and faithful witnesses

to your promise of eternal life

Lời cầu nguyện của Đức Ông Đa Minh Đỗ Văn Đĩnh:


Lạy Chúa, vì tình yêu thương bao la, Chúa đã an bài

Cho Hội Thánh tham dự vào cuộc thương khó của Đức Kitô.

Xin Chúa đưa mắt nhìn c ác Kitô hữu đang bị bách hại vì danh Chúa

mà đỗ tràn Thần Khí, giúp họ sống kiên nhẫn và yêu thương

và sau đây, chúng con xin dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin cho quê hương và giáo hội Việt Nam chúng con:

Lời cầu nguyện của Phó Tế Giuse Hồ Quang Nhựt:

Xin cho Giáo Hội Mẹ Việt Nam với những khổ đau dằn vặt và riệng Giáo Hội miền Bắc đã chịu đựng hơn nữa thế kỷ mà trong đó có Giáo Xứ Thái Hà đã phải sống những tháng ngày ngộp thở với những khó khăn chồng chất trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, những đất đai cơ sở bị tước đoạt nhưng Giáo Hội vẫn một lòng cam tâm chịu đựng và xem như là những hoa quả đầu mùa xin dâng hiến lên Thiên Chúa như ngày xưa, gần 2000 năm trước, Chúa Giêsu đã bị quân dữ hành hạ đóng đinh trên thập giá ở ngọn đồi Calvaria và Chúa đã xem đó như là lễ vật dâng lên Thiên Chúa để hoàn thành sứ mạng cứu chuộc. Xin Chuá ban ơn bền đỗ và sự chịu đựng cho họ.

Chúng con cầu xin Chúa

Lời cầu nguyện của đại diện giáo dân:

Chúng con cầu xin Thiên Chúa ban ơn sáng suốt cho hàng Giáo Phẩm Việt Nam biết đâu là lối phải tránh, biết đâu là con đường phải đi để đưa Giáo Hội đến bến bờ mà Thiên Chúa hằng mong muốn con dân của Ngài sẽ chu toàn trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng ở cuộc sống trần thế nầy.

Chúng con cầu xin Chúa

Lời cầu nguyện của đại diện giáo dân:

Xin Thiên Chúa ban ơn can đảm, khôn ngoan, nhẫn nại cho hàng triệu giáo dân Việt Nam từ Bắc ra Trung vào Nam trong đời sống hàng ngày để họ nhận diện ra giá trị của thập tự giá trên ngọn đồi Calvario và giá trị của những lời cầu nguyện trước Toà Khâm Sứ ở Hà Nội, ở Giáo Xứ Thái Hà, và ở khắp nơi trên thế giới.

Chúng con cầu xin Chúa

Lời cầu nguyện của đại diện giáo dân:

Những gì của Thiên Chúa phải trả lại cho Thiên Chúa, những đất đai tài sản của Giáo Hội Việt Nam phải trả lại cho Giáo Hội Việt Nam, những đất đai của Giáo Xứ Thái Hà phải trả lại cho Thái Hà. Xin cho những ai đã quên sẽ đuợc nhớ lại và thực hành những gì mà Thiên Chúa đã dạy để cho hoà bình và công lý đuợc tôn trọng trên quê hương Việt Nam chúng con.

Chúng con cầu xin Chúa

Lời cầu nguyện của đại diện giáo dân:

Và sau cùng, chúng con xin dâng đất nước Việt Nam, xin dâng Giáo Hội Mẹ Việt Nam, xin dâng 10 triệu anh chị em Công Giáo của chúng con trong đó có ông bà, cha mẹ, anh chị em thân bằng quyến thuộc của chúng con và xin dâng 85 triệu đồng bào Nam Trung Bắc vào bàn tay che chở của Đức Mẹ

và sự quan phòng của Thiên Chúa để họ có đuợc một đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc với an hoà trong công lý.

Chúng con cầu xin Chúa

Lời cầu nguyện của Đức Ông Đa Minh Đỗ Văn Đĩnh:

Lạy Chúa, xin giúp anh chị em chúng con đang trải qua cơn thử thách ngặt nghèo, biết can đảm vác thập giá đi theo Đức Kitô, và trước mặt mọi người, dám hiên ngang nhận mình là Kitô hữu mà không hề hổ thẹn, Chúng con cầu xin nhờ ơn Đức Ki-tô Chúa chúng con.

Cộng Đoàn: Amen.

Phó Tế Giuse Hồ Quang Nhựt: Xin cả Cộng Đoàn cùng dâng lời ca tiếng hát cùng với Ca Đoàn Đồng Tâm qua lời khấn xin với bài hát “Mẹ rất nhân từ”.
 
Ở đâu có hai, ba người tụ họp nhân danh Thầy
Lm. Lê Quang Uy, DCCT Việt Nam
05:34 07/09/2008
“Ở ĐÂU CÓ HAI, BA NGƯỜI HỌP LẠI

NHÂN DANH THẦY...”

Những ngày này ở Giáo Xứ Thái Hà, chắc chắn không chỉ hai ba Tu Sĩ Linh Mục DCCT, cũng chẳng phải là hai ba trăm Giáo Dân, mà lúc nào cũng có đến hai ba ngàn người họp lại nhân danh Thầy Giêsu. Thứ bảy hôm qua, Hành Hương kính Đức Bà Hằng Cứu Giúp đầu tháng, có lẽ phải đến cả vạn lượt người. Mọi lần chỉ có 2 phiên Hành Hương và 2 Thánh Lễ sáng chiều đông nghịt người, bây giờ phải tăng thêm 4 Thánh Lễ nữa mà vẫn không đáp ứng được đoàn người vẫn lũ lượt tuôn về.

Một dòng sông những con người khao khát tâm linh. Họ từ Vinh, ngang qua Thanh Hóa rồi Ninh Bình, cuốn thêm nhiều đoàn Giáo Dân nữa, cùng nhau đổ ngược ra, đi xe ít thì cũng 5, 6 tiếng, xa nhất thì phải mất đến 9, 10 tiếng đồng hồ, phải đi thâu đêm, phải đi thành nhiều chặng. Họ từ Thái Nguyên, Bắc Giang đổ xuống cũng cả một hai trăm cây số, khi bị chặn xét dọc đường, đã nhanh chóng tản ra, chịu tốn thêm tiền thuê các xe nhỏ hơn, bằng mọi giá để có thể “hợp lưu” ở Thái Hà. Các Giáo Xứ trên Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng đổ về, các tỉnh Hà Nam và Nam Định tuy thuộc Giáo Phận Hà Nội nhưng vẫn phải gian nan lắm mới hội ngộ được bên nhau tại Phố Đức Bà.

Ấy vậy mà họ đâu phải là khách du lịch, hay chí ít là những người vô công rảnh rỗi, hiếu sự, tò mò, muốn nhìn tận mắt, muốn nghe tận tai những chuyện nhiễu nhương tại Thái Hà. Gần như hầu hết họ là những người nghèo, đi xa và đi lâu như thế này, phải chắt bóp dành dụm, phải tính toán vén khéo, chọn hợp đồng với những chuyến xe cũ kỹ giá rẻ, rồi cơm đùm cơm nắm, băng qua những trận mưa rào tối mày tối mặt hoặc những cơn nắng chang chang hừng hực lửa. Và cam go nhất là phải thoát được những thứ rào cản, phá bĩnh, cấm đoán, giả danh và đội lốt... “Tháng An Toàn Giao Thông” !

Họ hành hương về với Đức Bà được mệnh danh là Hằng Cứu Giúp. Họ tập họp lại dưới đất để vói lên đến tận trời cao mà cầu xin. Họ chẳng dựa vào thế giá nào ở trần gian mà chỉ một mực nhân danh của Giêsu, Thầy Nghèo của dân nghèo, Thầy Thương Xót của đám người cần được xót thương mà thôi.

Họ xin gì vậy ? Chỉ xin cho đời họ đỡ khổ, đỡ bị vòi vĩnh, tham lạm, chèn ép, đe loi, bóc lột. Chỉ xin cho được yên ổn mà chí thú làm ăn, không bị tước mất sào ruộng mảnh vườn bởi bọn cường hào ác bá “thế hệ mới”. Chỉ xin cho được hít thở không khí thoáng đãng của tự do, đúng với những gì họ đã được hứa hẹn từ hơn nửa thế kỷ trước, khi lên đường theo cách mạng. Chỉ xin cho được sớm tối kinh hạt Nhà Thánh, lễ lạt Nhà Thờ, thỏa cái đói cái khát thiêng liêng đã cồn cào trăn trở mấy mươi năm.

Trời ơi, cuộc đấu tranh của họ không thấy phảng phất mùi chủ nghĩa học thuyết gì cả, không có lấy một khẩu súng viên đạn nào, thế mà lại được chụp cho cái mũ chính trị, vu cho cái tội “diễn tiến hòa bình”. Mà thật ra, đấu tranh gì đâu mà đấu tranh ? Đấu là phải có đụng độ xô xát chứ ! Tranh là phải có giằng co giành giựt, thậm chí là trấn lột cướp bóc chứ ! Đàng này, họ toàn hát Kinh Hòa Bình, họ toàn lần chuỗi Mai Khôi.

Có lúc bị khiêu khích chọc tức để người ta kiếm cớ trấn áp, cái bản tính nông dân nhà quê lại tự nhủ: “Thôi, một sự nhịn chín sự lành” ! Có lúc thấy người ta thuê bọn du côn giựt tung ảnh Đức Bà vựt xuống đất, cái cốt cách con nhà có Đạo lại thầm cầu: “Ối giào, xin Mẹ tha cho chúng, chúng không biết việc chúng làm í mà !”

Ấy là những người được ra tận nơi, dâng Thánh Lễ tại Đền Thái Hà rồi kéo sang Phố Đức Bà, tràn vào cầu nguyện ngay trên mảnh đất bị người ta chia năm xẻ bảy bán buôn tư túi. Họ hạnh phúc, họ tự hào, họ lâng lâng cứ như đang chuẩn bị tử vì Đạo vậy. Thế còn những người ở miền Nam, ở tận các nước khác trên thế giới thì sao ? Thưa, họ hiệp thông từ xa vậy. Những đêm đốt nến cầu nguyện mà lòng hồi hộp không biết tại Thái Hà có còn bà già nào bị đạp chân vào mặt đến tóe máu, không biết có còn chị Nữ Tu và cháu bé nào bị sặc phải hơi cay mà ngất xỉu ?

Họ ở rất xa, ký tên vào kiến nghị, gửi E-Mail động viên, viết các Blast, Entry và Comment trên Blog để kêu gọi dư luận ủng hộ ôn hòa. Họ góp tiếng hát vào lời Kinh Hòa Bình cuối mỗi Thánh Lễ. Có những nhóm nhỏ Bloggers rủ nhau đọc kinh Mai Khôi lúc 10 giờ đêm. Có những nhóm nhỏ tìm đến một Nhà Nguyện nào đó nơi họ đang sống để đọc Kinh Lòng Thương Xót lúc 3 giờ trưa.

Có những nhóm nhỏ đứng vòng tròn trước hoặc sau một chuyến đi bác ái, không quên dâng một lời nguyện cho những người ở Thái Hà mà họ chưa bao giờ gặp mặt.

Ngay hôm 28.8.2008, sau Thánh Lễ đêm thắp nến ở Đền Đức Mẹ DCCT Sài-gòn, đã có hàng trăm người vây quanh cha Bề Trên Hà Nội Vũ Khởi Phụng. Cha bảo sáng mai cha sẽ phải ra ngay với Giáo Dân của mình đang bị vụt roi điện ngoài Thái Hà, nhiều người đã rơm rớm nước mắt cố ấn vào trong tay cha những món tiền để xin chia sẻ một chút thật khiêm tốn mà chân thành với các nạn nhân khốn khổ.

Lại cách đây mấy ngày, một chị trung niên gọi điện hỏi trong Dòng có ai sắp ra Bắc cho chị được gửi theo ba lít rượu bóp gia truyền, chị bảo: “Cha ơi, rượu này dùng cho người tập võ thuật, đánh quyền cước, bầm tím chỗ nào xoa ngay là lành hết nội thương”. Chúng tôi còn đang ngẩn ra chưa hiểu sự tình gì, chị năn nỉ: “Cha giúp cho những người bị đánh dùi cui roi điện ngoài Thái Hà đó cha, tội nghiệp họ quá...”

Thì ra sự hiệp thông đã không dừng lại ở chuyện cầu nguyện. Thiêng liêng là cần thiết, là ưu tiên. Nhưng anh chị em Giáo Dân khắp nơi gần xa còn muốn hơn thế nữa, nhiều và sâu hơn nữa, một hiệp thông bằng xương thịt, bằng hơi thở, bằng nhịp đập chung một con tim thổn thức.

Truyền hình, truyền thanh và báo chí càng sa sả liên tục tuyên truyền đưa tin, kết án “vụ việc gây rối trật tự” và “có ý đồ xách động” thế này thế kia, thì người dân khắp nơi, Công Giáo và cả không phải Công Giáo, lại càng cố gắng “dịch ngược”, “đọc ngược”, “hiểu ngược” lại tất cả và đi đến kết luận rằng nếu Nhà Nước mà đã phải hô hoán nhộn nhạo cả lên thế này thì ắt bà con Giáo Dân Thái Hà đang phải gánh chịu một sức trấn áp tàn nhẫn đến mức nào ! Và tình nghĩa hiệp thông Bắc Nam, trong và ngoài nước, đồng đạo và đồng bào lại càng thêm thắt chặt.

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thầy Giêsu cam kết rất mạnh: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên Trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. Vậy thì chúng con đã xin nhân danh Thầy và vẫn mãi nhân danh Thầy để xin cùng Chúa Cha, rằng:

“Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng,

Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời...”
 
Bà chủ tịch ngoan đạo
Xuân Văn
05:36 07/09/2008
Tối nay (6/9/2008) chúng tôi ngồi theo dõi chương trình thời sự của Đài truyền hình Hà Nội. Chúng tôi chẳng phải là những người thích bàn luận những chuyện chính trị xã hội gì cả, mà đơn giản là bấy lâu nay sự kiện Thái Hà qúa nóng nên chúng tôi cố ý theo dõi xem cái anh truyền hình nhà nước xuyên tạc sự kiện này đến mức nào.

Sau mấy mẩu tin về ông phó thủ tướng thăm chỗ nọ chỗ kia, rồi mẩu tin về bốn sinh viên Việt Nam đem lại vinh quang cho đất nước với những tấm huy chương trong cuộc thi toán tin thế giới, là đến phần tin tức về Thái Hà. Bà chủ tịch hội đồng nhân dân phường Giảng Võ xuất hiện trên truyền hình. Bà xưng mình là người có đạo và sống đức tin của mình cách sáng suốt. Sau lời tự giới thiệu, bà bắt đầu “bình loạn” và kết án các linh mục và giáo dân Thái Hà. Bà vừa nhìn vào tờ giấy đặt trên mặt bàn vừa ngắc nga ngắc ngứ nói lên lòng ngoan đạo của mình, đồng thời lên giọng khuyên răn giáo dân giáo xứ Thái Hà hãy trở về nhà yên ổn làm ăn. Có lẽ bà chưa kịp học thuộc những gì người ta soạn sẵn cho mình, nên cứ phải liên tục nhìn lên nhìn xuống.

Xem xong tin tức Thái Hà, anh bạn ngồi cạnh tôi vỗ đùi đánh đét một cái, cất giọng oang oang: Cái bà này kể ra cũng khá thật! Ngồi vào cái ghế chủ tịch mà vẫn ngoan đạo như thế thì còn gì bằng!

Anh bạn ngồi đối diện tôi góp lời: Hôm nay, nếu có mặt ở Thái Hà, chắc bà này cũng khuyên hai cụ giám mục và mấy chục linh mục đang đồng tế trở về nhà yên ổn làm ăn!
 
Đối Thoại Trong Sự Thật
LM. Anton-Phaolo, SJ.
10:49 07/09/2008

Đối Thoại Trong Sự Thật



Trong những năm gần đây, việc khiếu kiện đất đai luôn là một vấn đề nổi cộm và nóng bỏng tại Việt Nam. Các quan chức chính quyền thừa nhận rằng nguyên nhân chính dẫn đến sự bức xúc là vì luật đất đai có nhiều điểm bất hợp lý, chồng chéo lên nhau. Chính quyền địa phương thường có quá nhiều quyền hạn trong việc sử dụng đất đai, cũng như xử lý các vụ tranh chấp. Thiếu vắng một cơ quan giám định độc lập, luật được làm trên cửa miệng của các quan chức, muốn xử sao thì xử. Người dân chẳng biết kêu ca vào đâu. Khiếu kiện thì trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Cấp dưới thì không thụ lý, cấp trên thì bảo rằng không có cơ sở giải quyết.

Tất cả những điều này tạo nên bất công và bất ổn trong xã hội. Những việc xảy ra gần đây ở giáo xứ Thái Hà, Hà Nội chỉ là giọt nước tràn ly. Các bài đọc trong thánh lễ tuần này đều liên quan đến đề tài nhạy cảm này. Theo Thánh Phaolô, điều duy nhất các Kitô hữu nợ người khác là tình “tương thân tương ái.” Đây là một nguyên tắc sống giải thoát chúng ta khỏi những đòi hỏi giả tạo, bất công của xã hội. Đức ái, chứ không phải của cải, danh vọng, hay quyền lực, là điều Kitô hữu cần theo đuổi. Đức ái đòi hỏi chúng ta phải lấy đức báo oán, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp.

Nhưng đức ái cần được thể hiện đúng thời đúng chỗ. Việc để cho mình bị người khác chà đạp, lợi dụng, ức hiếp không phải là “đem chân lý vào chốn lỗi lầm”, ngay cả khi chúng ta cho rằng việc nhẫn nhục chịu đựng là thể hiện đức ái. Không, đức ái không thể nào đến từ những hành vi bạo lực, từ những luận điệu dối trá, những cách ứng xử bất công. Đức ái phải được xây dựng trên công lý và sự thật, vì trong Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương, chân… thiện… mỹ… chỉ là một. Sự thật, sự tốt lành, và vẻ đẹp là ba nét của cuộc sống, luôn bổ xung cho nhau. Thay thế sự thật bằng giả dối là đánh mất đi sự thiện hảo và tha hoá lương tâm con người, và như thế, cái đẹp của cuộc sống cũng mất theo. Vì thế ngôn sứ Ezekiel đã nhắc nhở chúng ta rằng đức ái đòi hỏi chúng ta cần lên tiếng khi thấy sự sai trái.

Thông thường chúng ta ngại đụng chạm, ngại mất lòng, ngại hiểu lầm, ngại mất quyền lợi… và chúng ta yên lặng. Có mấy người trong chúng ta dám sống triệt để với đòi hỏi của Tin Mừng? Có mấy người dám nói với các cấp lãnh đạo của mình là họ đang làm sai? Nếu hôm nay ngôn sứ Ezekiel gặp chúng ta, ngài sẽ nói với chúng ta rằng: “Nếu anh em nói với những người có trách nhiệm, có thẩm quyền, về những quyết định và hành động sai trái của họ, và nếu họ không nghe, thì Thiên Chúa không bắt lỗi anh em. Nhưng nếu anh em thấy việc sai trái họ làm mà không lên tiếng, anh em phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại vật chất và tinh thần gây ra cho gia đình, cộng đoàn, giáo xứ và xã hội chúng ta.”

Chúng ta không chịu trách nhiệm về việc làm của người khác, nhưng chúng ta có bổn phận phải cảnh báo người khác trong tâm tình yêu thương, phải nói lên sự thật. Vì sự thật sẽ giải thoát chúng ta. Và nếu chúng ta không lên tiếng khi cần phải nói, chúng ta sẽ chịu trách nhiệm về những hậu quả xấu xa đến từ những quyết định, những hành động sai trái đó. Im lặng là đồng lõa với tội ác. Bài Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu thêm vào đó một nguyên tắc ứng xử khôn ngoan. Khi đến với kẻ sai trái, hãy mở đầu bằng việc đối thoại. Đừng kết án họ, đừng dồn họ vào đường cùng, nhưng dùng lý lẽ để phân biệt phải trái, dùng lời nói để thuyết phục họ. Thông thường khi bất đồng ý kiến với kẻ khác, chúng ta thường đi nói với người thứ ba. Chúng ta thường chỉ trích, than phiền, kéo bè kéo đảng. Chúng ta mong rằng khi phải đối đầu với kẻ ấy, chúng ta đã có được hậu thuẫn. Rồi thì chúng ta thường ném đá giấu tay hoặc cả vú lấp miệng em, lôi kéo lý lẽ về phần mình. Tôi đúng nó sai! Nhất là đối với người có quyền hành, tôi luôn luôn đúng!

Cách ứng xử của Chúa Giêsu khác với cách chúng ta thường làm. Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng bước đầu tiên trong việc đối thoại là đến trực tiếp với người đó, và nói lên điều mình nghĩ. Không phải đến để đôi co cãi nhau, lên án nhau, nhưng để cùng truy tầm chân lý, để cùng đi tìm sự thật. Vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. Việc đối thoại chắc chắn không dễ dàng, bởi vì để lắng nghe, để thay đổi một quan điểm thì cần nhiều thời gian và thiện chí. Điều này càng khó hơn nữa khi đối tượng của việc đối thoại có nhiều ảnh hưởng hay nhiều quyền lực hơn chúng ta. Họ có thể không thèm đếm xiả đến việc đối thoại, hay dùng quyền lực để trấn áp chúng ta. Nhưng khi việc đối thoại trong yêu thương và thiện chí không thành công, chỉ khi đó chúng ta mới dùng đến các biện pháp khác. Nếu một bên cứ cố chấp khăng khăng không nhận lỗi, thì việc đối thoại đi vào bế tắc, và lúc đó sự cố chấp cần phải được lên án mạnh mẽ.

Tuyệt nhiên việc bạo động không bao giờ là cách hành xử của Tin Mừng. Các Kitô hữu tiên khởi cũng như các tiền nhân tử đạo của chúng ta thà chịu chết vì sự thật, chứ không cầm lấy vũ khí chống lại những kẻ bách hại họ. Không có sức mạnh nào lớn hơn việc nói lên sự thật trong yêu thương. Chúng ta có thể cho rằng việc đối thoại quá chậm chạp, mất thời giờ. Trong đối thoại sẽ có nhiều câu hỏi hơn câu trả lời, có nhiều khúc mắc hơn phương pháp giải quyết. Nhưng đó là cách của Chúa Giêsu. Ngài không hứa với chúng ta rằng chúng ta sẽ không gặp rắc rối, phiền phức khi nói lên sự thật. Ngài không hứa rằng chúng ta không phải trả giá cho việc bênh vực chân lý. Nhưng Ngài nói, “Hễ ai tìm kiếm mạng sống mình thì sẽ mất. Nếu được cả thế gian mà đánh mất chính mình thì được cái gì?” Chúng ta sống giữa thế gian, nhưng là con cái Chúa, chúng ta không thuộc về thế gian này.

Ở Thái Hà, các tu sĩ và giáo dân không chỉ đòi đất đòi nhà cho một dòng tu, một giáo xứ, hay cho Giáo Hội Công Giáo. Họ không tranh đấu để bảo vệ tài sản, địa vị, hoặc quyền lợi của một cá nhân hay một tổ chức. Nhưng họ đang gióng lên tiếng nói của lương tâm của sự thật, hầu công bằng xã hội được thực hiện, hầu phúc lợi nhân phẩm của những người thấp cổ bé miệng được tôn trọng. Con đường của Kitô hữu là con đường thập giá. Cũng như Chúa Giêsu ngày xưa, hôm nay chúng ta cũng được Thiên Chúa trao ban sứ mạng làm chứng cho công lý và sự thật. Ngày xưa Philatô đã ngạo nghễ hỏi Chúa Giêsu “sự thật là gì?” trước khi đóng đinh Ngài. Bóng tối tưởng chừng đã che phủ ánh sáng. Nhưng rồi lịch sử đã chứng minh, cuối cùng sự thật và công lý vẫn chiến thắng, và quyền lực của thế gian chẳng bao giờ trấn áp được.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm để nói lên tiếng nói của sự thật, nhưng với tâm tình yêu thương và thiện chí, để công lý được thực hiện và an bình được tái lập. Amen.
 
Gía trị pháp lý các bằng chứng liên quan tới Bất Động Sản thuộc Giáo Xứ Thái Hà
Ls Trần Lê Nguyên
12:42 07/09/2008
Gía trị pháp lý các bằng chứng liên quan tới Bất Động Sản thuộc
Giáo Xứ Thái Hà dựa trên các điều kiện căn bản của Luật về Hợp Đồng Dân Sự


Bài trước chúng tôi đã phân tích tính cách bất hợp Pháp và bất hợp Hiến của Nghị Quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc Hội nước CHXH Vietnam nhằm tước đoạt không bồi thường các Bất Động Sản thuộc Giáo Xứ Thái Hà và Nghị Quyết này phải bị tuyên bố vô giá trị, không có hiệu lực chấp hành (1).

Có lẽ Chính Quyền cũng đã nhận thấy cái Nghị Quyết trên không có giá trị pháp lý nên đã tập trung các phương tiện truyền thông đưa ra các bằng chứng cụ thể về việc Linh Mục Vũ Ngoc Bích, quản gia, đã ký biên bản “Hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào nhà nước” vào ngày 24/10/1961 (2).

Tuy nhiên, văn bản được chiếu trên Đài Truyền Hình Trung Ương trong mấy ngày qua, lại ghi là ngày 30/1/1961 (3).

Việc Hội nghị bàn giao nói trên là để thực hiện Thông tư của Thủ Tướng Chính phủ số 73/TTg ngày 7/7/1962.

So sánh 3 mốc thời gian trên đây, chúng ta thấy những điều nghịch lý khôi hài :

- gần 9 tháng sau Hội nghị bàn giao nhà đã thực hiện xong thì Thủ Tướng Chính phủ mới có Thông tư chỉ đạo việc bàn giao trên;
- gần 18 tháng sau Hội nghị bàn giao nhà đã thực hiện xong thì Thủ Tướng Chính phủ mới có Thông tư chỉ đạo việc bàn giao trên;

Đàng khác, theo Công văn số 1784/TNMTD &ND-CS của Sở tài Nguyên Môi Trường thì LM Vũ Ngọc Bích lại ký tên vào Hội nghị bàn giao nhà là ngày 24/11/1961 chứ không phải là 2 mốc thời gian đã nêu trên !!!
Sau cùng, UBND Thành phố Hà nội đã gửi cho Giáo Xứ Thái Hà một tài liệu tờ đơn lại ghi ngày ký Hội nghị bàn giao nhà là ngày 27/5/1963 !!!

Các điểm trình bày trên cho thấy một điều hài hước không bình thường là: chỉ có một văn bản Hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào nhà nước và chỉ có một chữ ký cũa LM Vũ Ngọc Bích mà có tơi 4 mốc thời gian ký tên khác nhau cũng như khi bàn giao đã thực hiện xong rất lâu thì Thủ tướng mới ra Thông tư chỉ đạo việc bàn giao !!!!.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng thử phân tách tính cách hợp pháp và hiệu lực văn bản Hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào nhà nước do LM Vũ Ngọc Bích đã ký tên.

Trong Luật về Hợp Đồng Dân Sự (Droit de contrat – Law of Contract), một Hợp Đồng Dân Sự đựơc thành lập phải hội đủ các yếu tố thiết yếu sau đây:

- Sự đồng thuân của hai bên ký kết bằng việc đưa ra đề nghị và vệc chấp thuận đề nghị;
- Các bên ký kết phải có tư cách pháp lý;
- Đối tượng của Hợp Đồng và ý muốn ràng buộc pháp lý các bên ký kết;

A - Điều kiện 1: sự đồng thuân của hai bên ký kết, điều này có nghĩa là mỗi bên ký kết phải tự chủ ý muốn của mình, phải hoàn toàn tự do ký kết.

Đây là một trong những nền móng cốt yếu trong đời sống xã hội (4). Nếu không có tự do ký kết mà chỉ có ý muốn một bên đơn phương áp đặt thì Hợp Đồng đó dù có chữ ký của 2 bên ký kết cũng vô giá trị như không hề có Hợp Đồng đó.

Ví dụ trong hợp đồng ký kết giữ Huấn Luyện Viên Letart người Pháp, mặc dù ông ta đã ký đơn xin từ chức sau 6 tháng làm việc, Liên Đoàn Bóng Đá Việt nam vẫn phải bị phạt phải trả hết thời gian Hợp Đồng là khoảng 200,000US$ vì ông Letart bị áp lục từ chức, không do mình tự do quyết định.

Nên văn bản Hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào nhà nước do LM Vũ Ngọc Bích đã ký tên là vô giá trị vì ý muốn của Chính Quyền thời đó bắt LM Vũ Ngọc Bích phải bàn giao và ngài không có một chọn lựa nào khác: LM Vũ Ngọc Bích phải chấp nhận mà không được tự do đưa ra đề nghị nào khác với Chính Quyền.

B - Điều kiện 2: các bên ký kết phải có tư cách pháp lý: LM Vũ Ngọc Bích chỉ là người quản gia, không phải là chủ sở hữu bất đông Sản để có thể chuyển giao cho Chính Quyền thời đó.

C- Điều kiện 3 : đối tượng của Hợp Đồng và ý muốn ràng buộc pháp lý giữa các bên ký kết: một bên giao bất đông sản và một bên trả số tiền đền bù do sự chuyển nhượng bất đông sản.

Trong bản “Hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào nhà nước” chỉ thấy bên giao đất mà không thấy bên Chính Quyền nói tới đền bù. Điều này trái với qui định của Luật về Hợp Đồng Dân Sự về sự lợi ích tương đương (onereux)

Đúng thực ra, bản hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào nhà nước thực chất chỉ là bản kê khai tài sản thuộc Giáo Xứ Thái Hà, do LM Vũ Ngọc Bích, quản gia kê khai, không phải là bản sang nhượng hay trao cho Chính Quyền quản lý.

Điều này được minh chứng qua các tài liệu như băng Audio-Video được ghi nhận đầy đủ đăng trên các Web Site của Dòng Chúa Cứu Thế và VietCatholic khi Linh Mục Bích còn sống và qua nhiều lần khiếu nại đòi hoàn trả lại tài sản thuộc Giáo Xứ Thái Hà từ năm 1996.

Do vậy, chúng tối hết sức thông cảm dễ dàng sự lúng túng và vụng về của Chính Quyền khi đưa ra 4 thời điểm ký tên khác nhau trong cùng một văn kiện hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào nhà nước như chúng tôi đã trình bày ở trên.

Ngoài ra, một điều hết sức quan trọng là không một ai có thể căn cứ vào những tài liệu photocopi để thẩm định giá trị đích thực của bản văn hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào nhà nước, để minh chứng cho những điều minh khẳng định.

Bởi vậy có một sự thật không thể tranh cãi, đó là tài sản số 178 Nguyễn Lương Bằng, Quận Đống Đa vẩn luôn luôn thuộc Giáo Xứ Thái Hà trên khía cạnh lịch sử, pháp lý cũng như thực tế.

Luật sư Trần Lê Nguyên

Ghi Chú:
(1) Vietcatholic ngày 4/9/2008
(2) Quyết định số 2476/QD-UBND ngày 30/6/2008;
(3) Quyết định số 76/QL-ND;
(4) Điều 4 bản Tuyên Ngôn nhân quyền và quyền công dân năm 1789.
 
Lén lút, không minh bạch, thế mới là cách làm việc của công an và chính quyền?
Song Hà
13:01 07/09/2008
Lén lút, không minh bạch, thế mới là cách làm việc của công an và chính quyền?

Trong các buổi gặp gỡ với Thiếu tướng Nguyễn Đức Nhanh, Giám đốc Công an TPHN, ngày 22/8/2008 và ngày 25/8/2008 Linh mục Vũ Khởi Phụng, các linh mục trong đoàn đã đề nghị ông Nhanh xuống gặp dân, đối thoại với họ để hiểu nguyện vọng của họ và giải thích cho họ biết họ đã “vi phạm luật pháp” thế nào, nhưng ông không nhận lời mời.

Trong cuộc gặp gỡ với UBND Quận Đống Đa, Linh mục Phụng và đoàn đã đề nghị ông Chủ tịch Quận xuống để đối thoại với giáo dân, nhưng ông cũng không nhận lời mời. Thậm chí họ còn bảo không thể đối thoại với đông đảo bà con giáo dân. Một linh mục đã nói: “Các ông là người lãnh đạo, chẳng lẽ không đủ khả năng đối thoại với dân, không có khả năng nói trước đám đông dân chúng”?.

Nhưng đã không có việc đó xảy ra.

Vậy rồi ngày 5 tháng 9 năm 2008, ông Nhanh đã cho xe đến chở một số người do ông chọn đến sở Công an TP Hà Nội “làm việc”? Và những người được ông Nhanh chọn được phong chức là cốt cán, là đại diện cho giáo dân xứ Thái Hà?

Ai đại diện cho ai, thì ông Nhanh phải hiểu chứ? Những người này cốt cán là cốt cán của nhà nước, đâu có cốt cán của giáo dân Thái Hà? Còn đại diện cho giáo dân? Ai cử họ đại diện?

Hình như ông Nhanh quen kiểu bầu – cử đại biểu Quốc hội và các loại bầu cử khác xưa nay của nhà nước, “đảng cử, dân bầu” nên cũng áp dụng cách đó cho giáo xứ?

Những nhân vật này, thậm chí có người đã có lần được Thành ủy Hà Nội phong chức Linh mục để làm việc với Thành ủy?

Những người này là ai, hỏi bà con giáo dân Thái Hà, họ sẽ nói rõ cho mà biết, họ cười bảo nhau rằng: may mà ông Phạm Đình Bổng đã chết, nếu còn chắc cũng sẽ được mời từ trại giam về để làm cốt cán cho công an trọng vụ này?

Phạm Đình Bổng là người đã được báo chí nhà nước nhắc đến trong vụ giả chữ ký của Cha già Bích bán đất hồ Ba Giang của Dòng Chúa Cứu thế và bị truy tố. Trên báo chí nhà nước, đã thừa nhận: “đất đai Hồ Ba Giang nằm trong diện tích hơn 60.000 m2 của Dòng Chúa cứu thế…” (Xem bài báo của Nhà nước về kết quả vụ xử ông Phạm đình Bổng ở cuối bài này) và khi bán, ông Bổng đã phải giả mạo chữ ký của cha già Bích và đóng trộm dấu của nhà dòng trong thời gian có phục vụ tại nhà thờ trước đây.Một số người trong nhóm cốt cán được Giám đốc Công an HN mời làm việc trong ngày 5/9/2008 cũng là trong thời kỳ này. Sau đó đã bị giải tán.

Giáo dân bảo nhau, nếu giả chữ ký của Cha già Bích mà đều bị truy tố như ông Bổng, thì chắc sẽ còn nhiều người bị truy tố trong vụ đất đai Thái Hà liên quan đến chữ ký cha già Bích hiện nay.

Trở lại buổi làm việc, lý do ghi trong biên bản là “tại các buổi gặp đó, các linh mục đều có đề nghị lãnh đạo TP HN nên gặp giáo dân”. Và buổi biểu diễn này mới có?

Đây cũng thể hiện cách làm theo ý chủ quan mình của Công an Thành phố HN. Đó là cách làm “ngớ ngẩn” theo cách nói của người dân. Họ tưởng ai muốn làm cốt cán cho công an thì làm miễn là chỉ nghe và làm theo công an, thì ai muốn đại diện cho giáo dân thì đại diện sao?

Tại sao lãnh đạo của TP HN mà không biết rằng, mọi hoạt động tôn giáo và liên quan đến tôn giáo đều không thể tách khỏi nhà thờ và nhất là không thể tách khỏi linh mục quản xứ? Hay cũng như họ đã không biết Dòng Chúa cứu thế Thái Hà trực thuộc Giám tỉnh Dòng Chúa cứu thế nên họ chỉ gửi công văn đề nghị với Hội đồng Giám mục và TGM Ngô Quang Kiệt mà thôi. Hay cũng như họ đã định lập ra cái gọi là “Ủy ban đoàn kết công giáo” nhằm đến một lúc nào đó vô hiệu hóa và thay thế cả Hội đồng Giám mục mà bất thành?

Rõ là thầy bói xem voi, giải quyết kiểu này vừa làm trò cười, vừa làm mất lòng tin của người dân, vừa lại tiếp tục bổ sung bộ sưu tập những ngón nghề lừa bịp và khuất tất.

Họ đã làm nhiều trò, nhưng trò này thì lại tiếp tục phản tác dụng với lòng tin của người giáo dân. Đây thực chất cũng lại là cách bố trí để tuyên truyền lừa bịp mà không có tác dụng giải quyết vấn đề Thái Hà.

Tất cả những việc đó, đã dần dần khép lại thiện chí của người giáo dân, làm họ càng mất thêm lòng tin với nhà nước và long căm phẫn càng đầy thêm, vụ Thái Hà càng khó giải quyết.

Tại sao họ là những cán bộ đầy tớ của nhân dân, họ có đẩy đủ mọi thứ mà không dám tiếp xúc với dân một cách đàng hoàng, minh bạch? Hay họ sợ người dân, người chủ của mình vạch mặt đến thế nên mới làm kiểu này.

Thực tế là họ có tất cả, trừ sự thật và chính nghĩa. Còn người dân chẳng có gì, ngoài chính nghĩa và sự thật, nên họ sợ những thứ đó như loài dơi sợ ánh sáng?

Có phải làm việc lén lút, không minh bạch, không danh chính ngôn thuận, mới là cách làm việc của công an và chính quyền hiện nay?



 
CĐCGVN TGP Sydney Ký Thỉnh Nguyện Thư Hỗ Trợ giáo xứ Thái Hà
Diệp Hải Dung
17:15 07/09/2008
SYDNEY - Theo như thông báo của Ban Tuyên Úy qua Bức Tâm Thư:

Qua các phương tiện truyền thông, chắc hẳn Ông Bà và Anh Chị Em đã ít nhiều theo dõi về việc công an Hà Nội nhẫn tâm đàn áp và gây thương tích cho các giáo sĩ và giáo dân tại Giáo xứ Thái Hà. Chính quyền Cộng Sản lại một lần nữa đã bất chấp dư luận và công pháp quốc tế chà đạp thô bạo nhân quyền và khống chế quyền thiêng liêng nhất của mỗi con người là quyền tự do ngôn luận và tự do tôn giáo.

Hiệp thông cùng các giáo dân tại hải ngoại và các Cộng Đồng Công Giáo Liên Bang Úc Châu cũng như những người yêu chuộng tự do công lý trên toàn thế giới, BTU, sau khi hội ý với Ban Thường Vụ, tha thiết kính xin Ông Bà và Anh Chị Em vui lòng ký thỉnh nguyện thư sau mỗi Thánh Lễ hôm nay để bày tỏ tình liên đới đồng bào đồng thời yêu cầu Chính Quyền Liên Bang Úc Châu cực lực lên án chính quyền Cộng sản Việt nam và đòi buộc phải lập tức chấm dứt những hành vi tàn ác và man rợ này.


Thánh lễ cuối tuần ngày thứ Bảy và Chúa Nhật, Giáo dân thuộc 8 Giáo Đoàn Bankstown, Cabramatta, Fairfield, Lamkemba, Marrickville, Miller, Mt. Pritchard, và Revesby đã hưởng ứng đồng ký Thỉnh Nguyện Thư gởi cho Chính quyền Liên Bang Úc Châu cực lực lên án Chính quyền CSVN và đòi buộc phải chấm dứt những hành vi đàn áp tàn bạo dã man đối với Giáo dân vô tội tại Giáo xứ Thái Hà ở Hà Nội Việt Nam và đòi sự công bình lẽ phải.

Chị Thùy Trang thuộc Giáo đoàn Cabramatta bày tỏ ý tưởng về vụ Thái Hà hết sức là bất công. Chúng tôi tuy ở xứ Úc này xa xôi chẳng biết làm gì để trợ giúp cho Giáo xứ Thái Hà nhưng tâm hồn vẫn hướng về Giáo xứ Thái Hà và cùng hiệp thông cầu nguyện để sớm có được sự kết qủa tốt đẹp và bình an trong ơn Chúa. Chúng tôi sẵn sàng trợ giúp cho Giáo xứ Thái Hà kể cả vật chất...

Ông Phạm Thế Thành Trưỏng Ban Mục Vụ Giáo đoàn Bankstown cũng bày tỏ ý tưỏng của ông là kêu gọi mọi người trong Giáo đoàn cùng hiệp thông với Cộng Đồng Ngưòi Việt khắp nơi cầu nguyện cho Giáo xứ Thái Hà và kính xin mọi người cùng Ký Thỉnh Nguyện Thư để trình bày cho Chính Phủ Úc Đại Lợi biết về sự thật của Nhà Nước Việt Nam đã thẳng tay đàn áp Giáo dân Thái Hà một cách thô bạo, và Giáo đoàn chúng tôi kể cả các Giáo đoàn khác luôn sẵn sàng hỗ trợ cho Giáo xứ Thái Hà với khả năng và nhu cầu nếu cần thiết.
 
Đoàn Thiếu nhi giáo xứ Thái hà cầu nguyện tại linh đài Đức Bà
PV VietCatholic
20:17 07/09/2008
Sáng Chúa Nhật hôm nay (7.9.2008), các em Thiếu nhi của giáo xứ Thái Hà đã theo sau đoàn rước có Thánh giá nến cao, đoàn giúp lễ, các linh mục và đông đảo giáo dân tiến ra linh đài Đức Bà đề cầu nguyện. Các em vừa đi vừa ca hát trong tinh thần đoàn kết yêu thương và niềm vui.